1. Nghi lễ chuyển đổi (rite of passage) là nghi lễ đánh dấu sự thay đổi địa vị xã hội của con người.
Nghi lễ chuyển đổi thường đi kèm với những lễ nghi xung quanh những sự kiện liên quan đến đời người như việc ra đời của một đứa trẻ, tuổi vào đời, hôn lễ, thượng thọ…
 |
Tòa thánh Tây Ninh. Ảnh: caodai.com.vn |
Không giống với khái niệm chu kỳ đời người (circle life) thường dùng để chỉ về chu kỳ sinh học (sinh ra - trưởng thành - kết hôn – già yếu - chết)[1], nghi lễ chuyển đổi là nghi lễ được tiến hành như một sự tiếp nhận khi một cá nhân được chuyển từ vị thế xã hội này sang một vị thế xã hội khác.
Lý thuyết về Nghi lễ chuyển đổi do nhà dân tộc học người Pháp Arnold Van Gennep (1873-1975) đưa ra vào thế kỷ XX, sau đó được phát triển vào thập niên 60 của thế kỷ XX bởi các nhà Nhân học Mary Douglar, Victor Turner.
Theo Van Gennep, nghi lễ chuyển đổi có ba giai đoạn và ông sử dụng hai nhóm thuật ngữ tương đương để chỉ cho ba giai đoạn đó là: cách ly (separation), chuyển tiếp (transition) và hội nhập (incorporation); hoặc trước ngưỡng (preliminal), trong ngưỡng (liminal) và sau ngưỡng (postliminal)[2].
- Giai đoạn cách ly (trước ngưỡng) là khi con người chuẩn bị rời khỏi vị thế đang tồn tại để bước vào một vị thế mới mà họ muốn đạt đến. Giai đoạn này, con người buộc phải tách rời những thói quen ở địa vị cũ của mình để chuẩn bị bước vào một địa vị mới.
- Giai đoạn chuyển tiếp (trong ngưỡng) là con người đã thật sự rời khỏi vị thế cũ, nhưng chưa chính thức bước vào vị thế mới. Giai đoạn này không có gì rõ rệt, chưa có vai trò cũng như chưa mang một ý nghĩa rõ ràng.
- Giai đoạn hội nhập (sau ngưỡng) là giai đoạn mà con người tái hòa nhập với xã hội bằng một vị thế mới được xác lập. Đánh dấu cho giai đoạn này là việc kết thúc của một lễ nghi nào đó.
Đưa ra lý thuyết này, Van Gennep muốn nhấn mạnh đến vai trò văn hóa, bằng cách thông qua những lễ nghi văn hóa mà vai trò và địa vị của con người được xác lập ở vị thế khác trước (có thể là cao hơn) trong xã hội, và cũng nhằm đánh dấu bước phát triển của con người về vị trí xã hội theo qui định của mỗi nền văn hóa.
Nghi lễ chuyển đổi gồm nhiều loại hình khác nhau tuỳ thuộc vào qui định của mỗi nền văn hóa. Nó có thể dựa trên nhiều yếu tố (có thể riêng lẻ hoặc đang xen lẫn nhau) như sự phát triển về mặt sinh học của con người bằng việc đánh dấu những bước đi đầu đời, những lời nói đầu tiên của đứa trẻ, hoặc đánh dấu sự trưởng thành của cô gái qua các biểu hiện về mặt sinh học như việc có kinh nguyệt lần đầu tiên, mang thai lần đầu tiên hay sinh con lần đầu tiên…; cũng có thể dựa trên nghi lễ của tôn giáo bằng các lễ rửa tội, nhập môn, tẩy uế cơ thể, thăng chức giáo phẩm…; hay dựa vào lễ nghi của phong tục - tập quán như đầy tháng, thôi nôi (tôi tôi), thành nhân, hỏi cưới, mừng thọ,…; hoặc cũng có thể dựa vào một số loại nghi lễ khác do nền văn hóa đó qui định như cắt tóc lần đầu tiên, tốt nghiệp, thăng chức…
Nghi lễ chuyển đổi không chỉ diễn ra một lần trong đời mà có thể diễn ra liên tục, nhằm thay đổi vị thế của con người trong xã hội. Ví dụ như các cô gái của tộc người Di ở Trung Quốc có hai cuộc lễ chuyển đổi quan trọng trong đời là Lễ đổi váy và Lễ về nhà chồng.
Lễ đổi váy[3] diễn ra nhằm mục đích chuyển đổi vị thế xã hội của một cô gái từ thiếu nữ sang trưởng thành. Lễ này được tổ chức khi cô gái bước vào tuổi 15 hoặc 17, vì vào độ tuổi này, về mặt sinh học, cô gái đã hoàn toàn trưởng thành, có thể tìm hiểu bạn đời để tiến đến hôn nhân và xây dựng gia đình.
Nội dung cuộc lễ phản ánh theo ba giai đoạn trong lý thuyết về Nghi lễ chuyển đổi của Van Gennep. Đó là:
- Giai đoạn cách ly: Khi cô gái đến tuổi qui định, mọi người trong gia đình sẽ tổ chức lễ đổi váy cho cô. Cô gái sẽ hạn chế tiếp xúc với những người xung quanh, và tuyệt đối không được tiếp xúc với bất kỳ một nam giới nào trong cộng đồng. Cô gái sẽ được tết tóc thành một đuôi sam (trước đây tóc bỏ xoã), và mặc chiếc váy có đính hai băng vải màu đen ở hai bên. Những công việc này hoàn toàn khác so với những ứng xử hàng ngày trước đây của cô gái. Do đó, giai đoạn này được xem là giai đoạn cách ly, rời khỏi những sinh hoạt, ứng xử thường ngày của cô.
- Giai đoạn chuyển tiếp: được diễn ra trong ngày lễ. Ở giai đoạn này, cô gái được những người phụ nữ thân thiết trong gia đình và dòng họ hết lời dặn dò, giảng giải về những điều cần thiết liên quan đến lối hành xử của người con gái khi bước vào vị thế mới trong xã hội, và kèm theo đó là những lời chúc tụng tốt đẹp đến cuộc sống sau này của cô gái. Sau đó, người phụ nữ khéo tay nhất, xinh đẹp nhất trong nhóm sẽ chải đầu, đeo vòng tay và sửa sang váy áo cho cô gái
.
- Giai đoạn hội nhập: được diễn ra khi cuộc lễ kết thúc. Lúc này, cô gái bước vào xã hội với một vị thế mới với những đặc điểm khác trước như về đầu tóc, cô gái sẽ rẽ tóc và tết thành hai bím ở hai bên tai và trùm khăn kín đầu; về cách ăn mặc, cô gái sẽ mặc váy thường dài ba hoặc bốn tầng có màu sắc đối nghịch nhau rất mạnh như đen, xanh, lam, đỏ…; hoặc về trang sức đeo trên người thì có màu sắc sặc sỡ hơn xưa. Lúc này, cô gái được quyền tiếp xúc lại với cộng đồng, kể cả nam giới, nhưng với một vị trí của người con gái trưởng thành. Từ đây, cô gái sẽ đảm nhận vai trò và vị thế mới trong xã hội.
Lễ đổi váy là nghi lễ chuyển đổi bắt buộc dành cho nữ giới của tộc người Di.
Sau khi hoàn thành xong nghi lễ này, người con gái có một vị thế mới trong xã hội và từ đó mới có thể thực hiện thêm những nghi lễ chuyển đổi khác liên quan đến đời người như lễ về nhà chồng.
Hiện nay, hầu hết các tộc người trên thế giới đều có những nghi lễ chuyển đổi cho các thành viên. Ví dụ như tộc người Shan ở miền Bắc Thái Lan có lễ Poy Sang Long[4] dành cho bé trai ở độ tuổi từ 7 đến 14. Tộc người này theo Phật giáo nguyên thủy (Therevada), nên nam giới trong cộng đồng đến độ tuổi này phải chịu thực hiện lễ thức Poy Sang Long (có thể xem là lễ xuất gia học Phật). Lễ được tổ chức trong ba ngày, từ ngày mùng 4 đến ngày mùng 6 tháng 4 hàng năm, dành cho những bé trai có cùng độ tuổi. Lễ được tổ chức rất long trọng trong cộng đồng. Ở ngày đầu tiên, những đứa trẻ được tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ đẹp, tham dự bữa tiệc do gia đình tổ chức, nhận quà rồi được người đàn ông lớn tuổi đệu trên vai để đi diễu hành đến chùa trong tiếng trống và tiếng kèn rộn rả. Ngày thứ hai, đứa trẻ được cắt tóc, đội khăn xếp trắng, cũng được dự tiệc và được đưa đi diễu hành để đến chùa. Đến ngày thứ ba, đứa bé được mặc đồ sặc sở, giống với những vị hoàng tử (theo tích của Thái tử Sĩ Đạt Ta trước khi đi tu), vẫn được đệu trên vai để đi diễu hành. Lần này chúng được đưa đến chùa và ở lại trong đó để được các nhà sư dạy học trong khoảng thời gian vài tuần, có khi vài năm.
Đó cũng chính là nghi lễ chuyển đổi nhằm đánh dấu sự thay đổi vị thế xã hội của những bé trai trong cộng đồng (từ vị thế của một đứa trẻ sang vị thế của một thiếu niên, có bổn phận với tôn giáo, với cộng đồng xã hội); Hoặc tộc người Thrace (tộc người thiểu số ở Hy Lạp) có lễ thức Crastolo[5] (có thể xem là nghi lễ vào đời). Nghi lễ này dành cho những bé trai bước vào tuổi 13.
Khi đến tuổi này, bé trai sẽ được giao cho một loại vũ khí nào đó và sẽ phải sống tách biệt với cộng đồng, thường là sống một mình trong rừng. Đứa bé sẽ tự bảo vệ mình, tự kiếm sống trong khoảng thời gian vài tuần. Sau thời gian này, đứa bé sẽ được cộng đồng đón nhận trở lại bằng một bữa tiệc linh đình. Kể từ đó, vị thế của đứa trẻ trong cộng đồng được thay đổi khác trước. Chúng sẽ có trách nhiệm lao động, đóng góp công sức cho cộng đồng.
Như vậy, nghi lễ chuyển đổi là lý thuyết đề cập đến một loại hình sinh hoạt văn hóa được thực hiện nhằm đánh dấu sự chuyển đổi vị thế của con người trong xã hội. Tùy theo qui định của mỗi nền văn hóa mà nghi lễ chuyển đổi được tiến hành dưới những hình thức khác nhau.
Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng lý thuyết nghi lễ chuyển đổi để tìm hiểu sự chuyển đổi vị thế trong đời sống xã hội của tín đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ, nhằm mục đích hiểu biết thêm về sinh hoạt tôn giáo trong đời sống của người dân Nam Bộ nói chung và người dân theo đạo Cao Đài nói riêng.
2. Đạo Cao Đài với tên đầy đủ là Đại đạo tam kỳ phổ độ (Đạo phổ độ chúng sanh ở thời kỳ thứ 3)
hiện nay được xem là tôn giáo bản địa của Việt Nam. Đạo được thành lập vào ngày 18/11/1926 (tức ngày 14/10 năm Bính Dần) tại chùa Từ Lâm, Gò Kén, Tây Ninh. Nhưng sau đó, nơi thờ tự này được chuyển về làng Long Thành, cách Gò Kén khoảng 5km. Tại đây, nền đạo phát triển và dần trở thành “thánh địa” với Tòa Thánh uy nghi nằm trên diện tích có khuôn viên gần 100ha, do tín đồ góp công, góp của để xây dựng. Đạo Cao Đài hiện nay có 12 chi phái với các tên gọi như Chiếu Minh, Tây Ninh, Minh Chơn Đạo, Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo, Tây Tông Vô Cực, Bạch Y, Trung Hòa Phái, Tịnh Cốc, Minh Chơn Lý, Liên Hoa Tổng Hội, Cao Đài Truyền Giáo. Tín đồ của đạo Cao Đài ở Việt Nam hiện có khoảng 2,5 triệu người[6]. Ngoài ra ở các nước như Campuchia, Pháp, Mỹ, Anh, Canada… cũng có khá đông tín đồ Cao Đài và các cơ sở thờ tự của đạo.
Đạo Cao Đài ra đời là sự kết tinh, hội tụ các yếu tố từ tín ngưỡng dân gian đến niềm tin tôn giáo, đặc biệt là sự dung hòa tư tưởng Tam giáo (Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo) đã có từ xưa tại Việt Nam. Do đó, trong hệ thống thờ tự của đạo Cao Đài xuất hiện các bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật, và tôn trọng, thờ cúng Tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
 |
các tín đồ trong một Lễ của đạo. Ảnh: caodai.com.vn |
Đạo Cao Đài lấy tư tưởng Tam giáo đồng nguyên làm phương châm hành đạo và xem Thượng Đế (Ngọc Hoàng Thượng Đế) là đấng tối cao của tôn giáo.
Khi đạo Cao Đài phát triển và phân chia thành nhiều chi phái, phương châm hành đạo và cách thức phát triển nền đạo của các chi phái có khác nhau. Trong đó, sự khác biệt rõ nét nhất thuộc về chi phái Minh Chơn Lý.
Chi phái này ra đời vào năm 1931, sửa cải cách thờ tự, phong chức giao phẩm, kinh sách và kể cả quan niệm hành đạo, cứu thế. Do đó, tín đồ thuộc chi phái này không nằm trong phạm vi tìm hiểu của bài viết. Bên cạnh đó, chi phái Chiếu Minh cũng có lối hành đạo khác với các chi phái còn lại, như việc hạn chế phổ truyền tín ngưỡng của mình, kỹ lưỡng trong việc chọn tín đồ, tiến hành tu kỹ để luyện bí pháp… nên tín đồ của chi phái này cũng không được đề cập đến trong bài viết.
Các chi phái còn lại tuy có sửa cải nhưng nhìn chung vẫn theo mẫu số chung cho việc hành đạo của tín đồ là ăn chay, niệm kinh, tu tâm dưỡng tính, làm công quả,… để được giải thoát.
Do tư tưởng của đạo Cao Đài là kết tinh, hội tụ từ các yếu tố văn hóa dân gian của người Việt kết hợp với tư tưởng Tam giáo, nên các lễ nghi trong đời sống của tín đồ cũng khá phong phú.
Xét đến nghi lễ mang tính chuyển đổi vị thế trong đời sống, tín đồ đạo Cao Đài có hai loại hình là: nghi lễ chuyển đổi mang yếu tố phong tục như đầy tháng, thôi nôi (tôi tôi) và nghi lễ chuyển đổi mang yếu tố tôn giáo như tắm thánh, nhập môn, hôn phối,… Trong đời sống của tín đồ Cao Đài có khi không thực hiện hết những nghi lễ trên do gia đình hoặc bản thân tín đồ muốn đơn giản, tiết kiệm mà giảm bớt một vài nghi lễ như lễ thôi nôi, tắm thánh,… Nếu thực hiện đầy đủ, các nghi lễ này sẽ được tiến hành theo trình tự sau:
1. Lễ đầy tháng
Lễ này hoàn toàn mang yếu tố phong tục, do người xưa truyền lại, đến nay nó vẫn còn được thể hiện trong cuộc sống của tín đồ đạo Cao Đài.
Lễ này dành cho trẻ nhỏ. Tính từ khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời, đến khoảng 28 ngày sau (đối với bé gái), hoặc 29 ngày (đối với bé trai), vì người xưa quan niệm “nữ sụt 2, trai sụt 1”[7], người trong gia đình sẽ làm lễ đầy tháng cho đứa trẻ.
Lễ đầy tháng được tổ chức ngay trong nhà, có sự tham gia của bà con dòng họ. Gia đình khá giả thì tổ chức tiệc lớn để đãi khách, nhất là đối với gia đình mới có “con đầu lòng”. Họ hàng tham dự đều có quà mừng cho đứa trẻ. Trong lễ đầy tháng, điều bắt buộc không thể thiếu là một mâm đồ cúng, gồm trái cây, nhang đèn và đặc biệt phải có 12 chén chè, 12 dĩa xôi để dâng lên cho 12 bà mụ, vì những bà mụ này là những người sẽ thay phiên nhau chăm sóc và dạy bảo đứa trẻ.
Về ý nghĩa, lễ đầy tháng trước tiên mang ý nghĩa của lễ tạ ơn, vì thông qua lễ này người lớn trong gia đình sẽ chính thức tạ ơn Tổ tiên, ông bà đã phù hộ cho người phụ nữ từ khi mang thai đến khi sinh nở và đứa con ra đời được khỏe mạnh. Sau đó, gia đình muốn gửi lời tạ ơn đến bà con lối xóm đã thăm hỏi, chăm lo đến sức khỏe của người phụ nữ lúc mang thai; cũng thông qua lễ đầy tháng này, người ta còn muốn gửi gắm, nhờ cậy sự chăm sóc dạy bảo của 12 bà mụ ở cõi vô hình dành cho con mình, vì họ quan niệm, trong thời gian này các bà mụ chính là những người trực tiếp dạy bảo đứa trẻ; đứa trẻ có ngủ ngon, ăn nhiều, lanh lợi hay không là do sự dạy bảo của những bà mụ này. Do đó trong lễ đầy tháng, người ta cũng nhằm hướng đến sự tạ ơn dành cho những bà mụ đó.
Sau ý nghĩa tạ ơn, lễ đầy tháng còn mang ý nghĩa công bố với gia đình, dòng họ và cộng đồng biết về sự xuất hiện của một thành viên mới trong xã hội.
Qua lễ này, đứa trẻ sẽ có một vị thế hoàn toàn khác trước.
Khi vừa sinh ra, vị thế ban đầu của đứa trẻ chỉ được giới hạn trong gia đình và một số người thuộc dòng họ thân thích. Người ngoài không được vào thăm vì kiêng kỵ. Đứa trẻ chỉ được giao tiếp với cha mẹ chúng, nếu mở rộng thì cũng chỉ là những người thân nhất trong gia đình như ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, em. Khi đến một tháng tuổi, vị thế này sẽ được thay đổi, bằng việc thực hiện 3 giai đoạn sau:
+ Trước tiên là giai đoạn cách ly vị thế cũ, đứa trẻ sẽ được tắm rửa, xức dầu thơm, mặc quần áo đẹp, đưa ra khỏi giường để đến nơi làm lễ.
+ Sau đó là giai đoạn chuyển tiếp, người chủ lễ, thường là người lớn tuổi như ông bà hoặc cha của đứa trẻ sẽ bồng đứa trẻ cuối lạy 12 lạy trước bàn lễ để tạ ơn Tổ tiên, ông bà và các bà mụ. Người chủ lễ sẽ khấn với Tổ tiên về việc đặt tên cho đứa trẻ (tên này đã được chuẩn bị trước), có gia đình còn “xin keo”[8] để biết tên đặt cho đứa trẻ có được Tổ tiên đồng ý hay không. Khi đứa trẻ đã được trình tên với tổ tiên xong, người chủ lễ sẽ bồng đứa trẻ trình diện với bà con, dòng họ và những vị khách mời đến dự lễ. Đứa trẻ sẽ được những người này trao quà và có những lời chúc tốt đẹp dành cho nó.
+ Cuối cùng là giai đoạn hội nhập: Kết thúc buổi lễ, đứa trẻ sẽ xuất hiện trước cộng đồng bằng một tên gọi chính thức và được cộng đồng chấp nhận như một thành viên mới. Lúc này, vị thế của đứa trẻ không còn bó hẹp trong mối giao thiệp với các thành viên thân thích của gia đình nữa mà có thể gặp gỡ các thành viên khác trong cộng đồng, những người trong cộng đồng có thể bồng, bế và chăm sóc nó.
Như vậy, lễ đầy tháng được xem là nghi thức chuyển đổi vị thế đầu tiên của đứa trẻ trong xã hội mà gia đình tín đồ đạo Cao Đài nói riêng và các gia đình người Việt Nam Bộ nói chung thực hiện cho nó.
2. Lễ tắm thánh
Nếu như lễ đầy tháng là một nghi thức thuộc về phần phong tục, thì lễ tắm thánh thuộc về nghi thức của tôn giáo.
Lễ này được diễn ra khi đứa trẻ có độ tuổi từ 1 đến 2 tháng. Nó mang ý nghĩa là nhằm đem ân điển thiêng liêng truyền vào cơ thể của đứa trẻ để giúp nó phát triển dễ dàng cả về tâm linh lẫn thể chất theo chiều hướng tốt đẹp[9], bên cạnh đó cũng đánh dấu sự khởi đầu trở thành tín đồ Cao Đài (nhưng chưa chính thức) của đứa trẻ. Đó cũng là nghi thức chuyển đổi vị thế của đứa trẻ trong cộng đồng tín đồ.
Nghi thức chuyển đổi này được thực hiện theo trình tự sau:
+ Khi đã thực hiện xong lễ đầy tháng, cha mẹ của đưa trẻ đến trình báo với Ban Cai quản tại Thánh thất[10] để xin làm Lễ tắm thánh. Lễ này được cử hành vào ngày Sóc Vọng (nhằm ngày mùng 1 hoặc 15 âm lịch hàng tháng) tại Thánh thất do Ban Cai quản và những người đại diện trong gia đình chủ trì. Đến ngày qui định, đứa trẻ được tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm, mặc đồ đẹp và được gia đình đưa đến Thánh thất để chuẩn bị làm lễ. Đây được xem là giai đoạn cách ly với vị thế cũ.
+ Trong cuộc lễ, đứa trẻ được cha hoặc mẹ bồng qùi trước bàn thờ để làm lễ Đức Chí Tôn (Ngọc Hoàng Thượng Đế). Ban Đồng nhi[11] của Thánh thất sẽ đọc kinh tắm thánh, cầu nguyện Đức Chí Tôn ban phước lành cho đứa trẻ. Sau đó, vị chức sắc trong Ban Cai quản và cũng chính là người chủ lễ làm phép rưới nước Thánh Maha[12] lên đầu đứa trẻ, nhằm mục đích ban ân điển của Thượng đế và tẩy trược Chơn thần để đứa trẻ được sáng dạ, học hành mau tấn tới[13]. Đây được xem là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai vị thế cũ và mới của đứa trẻ.
+ Sau nghi lễ này, đứa trẻ sẽ được coi là tín đồ về mặt pháp lý. Đứa trẻ được Ban Cai quản ghi tên vào Sổ bộ để theo dõi và được cấp giấy chứng nhận gọi là “Giấy Tắm Thánh”. Cha mẹ của đứa trẻ phải giữ giấy này cho đến khi nó trưởng thành. Khi có Giấy tắm thánh, vị thế của đứa trẻ trong cộng đồng tín đồ Cao Đài sẽ khác so với trước. Lúc này, đứa trẻ hội nhập với cộng đồng như là một tín đồ của Đạo (nhưng vẫn chưa chính thức), được tín đồ trong đạo chăm sóc, dạy bảo, bồi dưỡng đức tin.
Như vậy, lễ tắm thánh thuần túy là một nghi thức của tôn giáo, nên khi thực hiện xong nghi thức này, vị trí của đứa trẻ trong cộng đồng tôn giáo được xác lập. Vị thế của nó sẽ khác trước, không còn là một đứa trẻ ngoài đạo, mà trở thành một đứa trẻ có tôn giáo bên mình.
3. Lễ thôi nôi
Đây là nghi lễ không bắt buộc đối với tín đồ đạo Cao Đài.
Tuy nhiên, tín đồ Cao Đài vẫn thực hiện như là một phong tục truyền thống tốt đẹp của cha ông truyền lại.
Lễ thôi nôi được tổ chức trong gia đình khi đứa trẻ được một tuổi. Gia đình khá giả có thể làm tiệc linh đình để đãi khách. Mục đích thực hiện lễ này là nhằm đánh dấu bước phát triển của đứa trẻ, và cũng không ngoài mục đích tạ ơn Tổ tiên, ông bà và các bà mụ đã chăm sóc, dạy bảo đứa trẻ.
Theo quan niệm của người dân[14], đứa trẻ từ khi được sinh ra đến 12 tháng tuổi là thời gian nó được sự chăm sóc, dạy bảo của 12 bà mụ. Mỗi bà sẽ chăm sóc, dạy bảo trong một tháng với một vài kỹ năng khác nhau. Đến tháng thứ 12 là tháng chấm dứt việc chăm sóc, dạy bảo của các bà mụ, sau đó đứa trẻ phải trực tiếp học các kỹ năng khác từ những người thân trong gia đình.
Do quan niệm như trên, nên đến tháng thứ 12, người trong gia đình sẽ làm lễ để tạ ơn những bà mụ. Tuy nhiên, cũng có quan niệm cho rằng, đây là lễ đánh dấu bước trưởng thành của đứa trẻ bằng hành động rời bỏ việc nằm nôi, nên có tên là lễ thôi nôi. Vì vậy mà người trong gia đình làm lễ để đánh dấu bước trưởng thành này.
Với quan niệm tạ ơn hay đánh dấu bước trưởng thành, thì chúng ta vẫn thấy, việc tổ chức lễ thôi nôi vẫn nhằm mục đích biểu hiện sự chuyển đổi vị thế của đứa trẻ trong cộng đồng xã hội. Lễ này cũng được diễn ra theo trình tự của ba giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu cũng giống với lễ đầy tháng, hoặc tắm thánh, đứa trẻ sẽ được tắm rửa sạch sẽ, được xức dầu thơm, được mặc quần áo mới, và được người chủ lễ bồng đến bàn lễ (bàn lễ cũng được bày đồ cúng giống với lễ đầy tháng).
+ Giai đoạn chuyển tiếp là đứa trẻ cùng với người chủ lễ lạy 12 lạy trước bàn lễ để tạ ơn các bà mụ. Sau đó, đứa trẻ được đặt ngồi dưới đất hoặc trên tấm phản lớn, phía trước có đặt một cái mâm đựng rất nhiều vật dụng như cây viết, sách, gương, lược, gói xôi, cục đất, cái kéo, con dao… để đứa trẻ tự chọn. Nếu đứa trẻ chọn vật gì trước có trong mâm thì sẽ được mọi người tiên đoán về công việc hoặc tính tình của nó về sau. Ví dụ, nếu đứa trẻ chọn cây viết hoặc quyển sách, thì sẽ được tiên đoán là sau này theo nghề giáo; còn nếu chọn cục đất thì sau này sẽ trở thành anh nông dân; nếu chọn gói xôi thì đứa trẻ sẽ ham ăn, chóng lớn…
Tiếp theo, những người tham dự lễ sẽ trao quà và có những lời chúc tốt đẹp dành cho đứa trẻ, mong muốn đứa trẻ sau này sẽ thành tài.
+ Giai đoạn cuối cùng là sự hội nhập của đứa trẻ. Sau khi kết thúc cuộc lễ, đứa trẻ trở lại hội nhập với cộng đồng, nhưng với một vị trí khác trước. Đó là việc đứa trẻ sẽ không còn có sự chăm sóc, dạy bảo của các bà mụ ở cõi vô hình nữa, mà người trong gia đình, dòng họ và cộng đồng phải đảm nhận vai trò này. Kể từ lúc này, người trong nhà phải hết sức cẩn thận đối với đứa trẻ, không cho nó té ngã, vì nếu té ngã sẽ gây ra chấn thương nghiêm trọng do không còn sự nâng đỡ của các bà mụ[15].
Thực tế của vấn đề này là, bắt đầu từ cái tuổi đầu đời, đứa trẻ rất tinh nghịch, hay khám phá nên rất dễ xảy ra những điều bất trắc ngoài ý muốn. Do đó, người xưa đưa ra quan niệm về việc “hết vai trò của các bà mụ” để người trong gia đình cẩn thận hơn khi chăm sóc đứa trẻ ở độ tuổi này. Hơn nữa, từ một tuổi trở đi, đứa trẻ bắt đầu có nhận thức và bắt chước những hành động, lời nói của người lớn để dần hình thành nhân cách, nên người xưa đặt ra các quan niệm trên để người lớn trong gia đình cẩn thận hơn trong lời ăn tiếng nói và cách hành xử nếu muốn con mình trở thành đứa trẻ ngoan ngoãn.
Như vậy, lễ thôi nôi cũng được xem là nghi thức đánh dấu sự chuyển đổi vị thế của con người trong đời sống. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi vào năm 2005, có nhiều gia đình tín đồ Cao Đài không thực hiện nghi thức này vì cho rằng không quan trọng và tốn kém, nhưng cũng có gia đình thực hiện rất linh đình, nhất là những gia đình khá giả mà có con đầu lòng, họ đãi tiệc tại nhà hàng và mời cả trăm khách tham dự.
4. Lễ nhập môn:
Nếu như lễ tắm thánh đánh dấu bước khởi đầu nhập đạo của đứa trẻ, thì lễ nhập môn xác nhận đứa trẻ đó chính thức trở thành tín đồ của đạo Cao Đài. Lễ nhập môn diễn ra khi đứa trẻ bước vào tuổi 18. Sở dĩ có lễ này vì đạo Cao Đài qui định sự tự nguyện của mọi tín đồ. Khi đứa trẻ còn nhỏ chỉ làm lễ tắm thánh để được hưởng ân điển của thiêng liêng mà phát triển về thể chất lẫn tinh thần. Lễ này do cha mẹ áp đặt, đứa trẻ chưa biết, nên không thể xem là tín đồ chính thức của đạo. Khi đến tuổi 18, đứa trẻ đã đủ trí khôn, đủ nhận thức và đủ khả năng chịu trách nhiệm về các hành vi của mình thì sẽ được tiến hành làm lễ nhập môn, nếu đứa trẻ đó ưng thuận trở thành tín đồ chính thức của đạo Cao Đài.
Lễ nhập môn diễn ra gồm các bước sau:
+ Giai đoạn chuẩn bị: giai đoạn này diễn ra trước lễ nhập môn vài tháng, người nhập môn phải tự nguyện học ăn chay, ít nhất là 6 ngày trong một tháng, theo các ngày qui định là mùng 1, 8, 14, 15, 23, 30 âm lịch hàng tháng, gọi là thọ lục trai; sau đó sẽ học thuộc kinh cúng tứ thời và tự tìm cho mình hai người lớn trong đạo hướng dẫn cách hành lễ trong khi cúng, gọi là hai người dẫn tiến. Sau khi thọ được lục trai, học thuộc kinh và thông thạo cách hành lễ, hai người dẫn tiến sẽ trình với Ban Cai quản trong Thánh thất về tinh thần học đạo của người xin nhập môn và chọn ngày làm lễ nhập môn. Khi đã chọn được ngày, người xin nhập môn phải may lễ phục, là một bộ áo dài trắng, có thêm khăn đóng đen (nếu là nam giới), để mặc trong buổi lễ và sẽ thường xuyên sử dụng sau này.
Có thể nói, đây là giai đoạn khá quan trọng của người muốn nhập môn, vì phải bỏ lại những thói quen thường ngày để khép mình vào khuôn khổ và giới luật của đạo. Do đó, có thể xem đây là giai đoạn cách ly vị thế cũ để chuẩn bị bước vào vị thế mới, vị thế của một tín đồ chính thức.
+ Lễ nhập môn (được xem là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai vị thế): Đến ngày làm lễ nhập môn, người nhập môn sẽ đi cùng với hai người dẫn tiến đến quì trước bàn thờ Thượng Đế ở Thánh thất. Chủ lễ và Ban đồng nhi đọc kinh nhập môn, sau đó người nhập môn phải đọc lời Minh thệ trước Thượng Đế như sau: “Tên… họ… thề rằng: từ đây biết một đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Địa lục”[16]. Sau lễ Minh thệ, người nhập môn đem Giấy tắm thánh nộp lại cho Ban Cai quản Thánh thất và được cấp một giấy khác gọi là Sớ cầu đạo thiệt thọ, và được ghi tên vào Sổ Bộ Đạo Chính thức. Từ đây, người này chính thức trở thành tín đồ của đạo Cao Đài.
+ Giai đoạn hội nhập: Sau khi chính thức trở thành tín đồ của đạo Cao Đài, vị thế của người này sẽ hoàn toàn khác trước. Người này phải nghiêm túc thực hiện các điều luật của đạo, như ăn chay 6 ngày trong tháng, sau tăng lên 10 ngày, rồi có thể tăng lên trường trai; phải tụng kinh, cúng tứ thời và đặc biệt là phải thực hiện công việc hành đạo. Nghĩa là cùng với những tín đồ khác tham gia vào các lễ cúng trong cộng đồng như đám tang, cúng tuần, cầu siêu… và hàng tháng đến ngày Sóc Vọng phải trở về cúng tại Thánh thất.
Với những việc như trên cho thấy, vị thế của một tín đồ lúc này hoàn toàn thay đổi so với lúc chưa nhập môn. Do đó có thể nói, lễ nhập môn là một trong những lễ thức chuyển đổi vị thế quan trọng trong đời sống của tín đồ đạo Cao Đài.
5. Lễ hôn phối
Lễ hôn phối diễn ra nhằm đánh dấu một vị thế mới của tín đồ.
Lễ này mang ý nghĩa kết hợp mối lương duyên của đôi nam - nữ tín đồ trong đạo. Khi đến tuổi trưởng thành, trên 18 tuổi, nam, nữ có quyền lập gia đình theo ước nguyện và theo tình yêu của đôi lứa. Giới luật của đạo Cao Đài qui định, tín đồ phải làm lễ hôn phối trước khi làm lễ kết hôn tại gia đình. Người đủ điều kiện làm lễ hôn phối phải là người đã trải qua lễ nhập môn.
Để lễ hôn phối được diễn ra theo đúng qui định của đạo, người muốn làm lễ phải thực hiện các công việc sau:
+ Tám ngày trước lễ hôn phối, chủ hôn nhà trai phải dán bố cáo nơi Thánh thất sở tại, gọi là Bát nhựt trình, để thông báo những người trong đạo biết về mối lương duyên của đôi trai gái, nhằm tránh những điều kiện tụng hoặc phản đối xảy ra khi làm lễ hôn phối. Trong thời gian này, đôi trai gái phải học cách hành lễ hôn phối, cách ứng xử trong cuộc sống vợ chồng và cách nuôi dạy con cái sao cho hợp với lẽ đạo. Những điều này do người trong Ban Cai quản Thánh thất hướng dẫn. Song song với những việc này, đôi trai gái cùng với gia đình hai bên lo chuẩn bị tổ chức lễ cưới tại gia đình như việc mua sắm lễ vật, làm giấy hôn thú, mời khách, chuẩn bị tiệc đãi khách,… Có thể xem thời gian này là giai đoạn tách rời vị thế cũ của đôi một trai gái để chuẩn bị bước vào vị thế mới, với vai trò mới trong xã hội.
+ Đến ngày lễ hôn phối, đôi trai gái cùng với hai bên gia đình, dòng họ tập trung về Thánh thất để làm lễ trước sự chứng kiến của đông đảo tín đồ trong đạo. Lễ hôn phối được diễn ra dưới sự chủ lễ của vị chức sắc trong Ban Cai quản. Đôi trai gái mặc đồ lễ (nam mặc bộ áo dài trắng đội khăng đóng đen; nữ mặc bộ đồ dài trắng, tóc bới cao cho gọn) hoặc cũng có thể mặc đồ cưới (nam mặc đồ vécton, nữ mặc áo dài cưới), quì trước bàn thờ phía sau người chủ lễ. Sau khi làm lễ Đức Chí Tôn (Ngọc Hoàng Thượng Đế), Ban đồng nhi đọc kinh hôn phối; và vị chủ lễ làm Phép hôn phối[17] cho hai người, rồi nhắc lại những điều đạo đức cần phải giữ gìn trong cuộc sống vợ chồng cho hai người nghe. Kết thúc lễ hôn phối, về phần tôn giáo, hai người này đã được xem như vợ chồng. Sau đó, hai người cùng với gia đình và dòng họ trở về làm lễ cưới theo phong tục. Như vậy, thời gian diễn ra lễ hôn phối của đạo và lễ cưới theo phong tục có thể xem là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai vị thế xã hội mới và cũ của một đôi trai gái.
+ Cuối cùng là giai đoạn hội nhập, sau khi kết thúc các cuộc lễ, đôi trai gái trở thành vợ chồng chính thức về mặt đạo lẫn mặt đời. Từ đây, vai trò làm vợ, làm chồng của hai người được thể hiện trong xã hội. Họ phải đảm đương những nhiệm vụ mới khác trước như phải xây dựng một gia đình hạnh phúc với các chức năng cơ bản là kinh tế, giáo dục và tái sản xuất lao động cho xã hội.
Như vậy, lễ hôn phối cũng là một trong những nghi thức chuyển đổi vị thế trong đời sống của tín đồ đạo Cao Đài, và nó được xem như nghi thức bắt buộc dành cho tín đồ.
Ngoài các nghi lễ mang tính chuyển đổi nêu trên, tín đồ Cao Đài còn có những nghi thức chuyển đổi khác như Lễ chúc thọ được tổ chức làm 3 lần vào 3 giai đoạn của đời người như giai đoạn từ tuổi 65 đến tuổi 75, gọi là Hạ thọ, giai đoạn từ tuổi 75 đến tuổi 85, gọi là Trung thọ, và giai đoạn từ tuổi 85 đến tuổi 100, gọi là Thượng thọ; hoặc lễ Thăng giáo phẩm, được tổ chức khi tín độ được thăng chức giáo phẩm. Trong đạo Cao Đài có 9 phẩm, gọi là Cửu phẩm thần tiên, từ thấp đến cao nhằm biểu hiện thành quả thăng tiến trong quá trình tu đạo của tín đồ như thấp nhất là Đạo hữu, sau lên Trị sự (gồm thông sự, phó trị sự, chánh trị sự), Lễ sanh, Giáo hữu, Giáo sư, Phối sư, Đầu sư, Chưởng pháp, Giáo tông.
Hai lễ thức này chỉ dành cho các bậc tu hành và mang tính tổ chức của tôn giáo, nên ít phổ biến trong đời sống của tín đồ. Do đó, trong bài viết này, chúng tôi không đề cập đến.
Tóm lại, nghi lễ chuyển đổi là lý thuyết dùng để chỉ những lễ thức được thực hiện nhằm đánh dấu sự chuyển đổi vị thế của con người trong xã hội. Hầu hết các nền văn hóa trên thế giới đều có những lễ thức biểu hiện sự chuyển đổi này trong đời sống của con người. Tín đồ đạo Cao Đài ở Việt Nam cũng vậy, họ cũng thực hiện hàng loạt các nghi thức như đầy tháng, tắm thánh, thôi nôi, nhập môn, hôn phối… nhằm để đánh dấu sự chuyển đổi vị thế của họ trong đời sống xã hội.
Th.S Huỳnh Ngọc Thu
Giảng viên Khoa Nhân Học, ĐH KHXH và NV
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo của Ban tôn giáo Chính phủ về tình hình sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam năm 2005
2. Bộ môn Nhân học, Biến đổi kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng người Chăm và Khmer tại TP. Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, 2006
3. Fiona Bowie, The Anthropology of Religion, Blackwell publishers, 2000
4. Nguyễn Văn Hồng, Cao Đài tự điển, Toà Thánh Tây Ninh, 2003
5. Tân luật, Tòa Thánh Tây Ninh, ấn bản năm Nhâm Tý (năm 1972)
6. Thánh ngôn hiệp tuyển, quyển 1, Toà Thánh Tây Ninh, năm 1973
7. Trần Văn Rạng, Giáo dục văn hóa đạo Cao Đài, Tòa Thánh Tây Ninh, 1974,
8. Viết An (sưu tầm – biên soạn), Phong tục cổ truyền Việt Nam và các nước, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2003
9. Tài liệu từ các webside:
http://www.chiangmai-chiangrai.com
http://en.wikipedia.org
http://www.personal.usyd.edu.au