Khái niệm văn hóa có ý nghĩa khác nhau với người khác nhau. Theo cách hiểu thông thường thì văn hóa là cái gì đó nghiêng về âm nhạc, nghệ thuật, đặc biệt của quá khứ. Tuy nhiên trong ghành nhân học, khái niệm này có một ý nghĩa khác.. Định nghĩa đầu tiên về văn hoá, được xem là "khoa học", do Tylor, một trong những Ông tổ của nghành nhân học hiện đại đưa ra. Theo đó
Văn hóa hay văn minh, dưới góc độ nhân học, được xem là tổng thể phức tạp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, các quy tắc đạo đức, luật lệ, phong tục và bất cứ kĩ năng hay thói quen do con người, với tư cách là động vật xã hội, tạo ra và lĩnh hội thông qua quá trình học (Edward B. Tylor, 1871.)
Các nhà nhân học kế tiếp Tylor kế thừa và phát triển thêm nhều định nghĩa theo các cách tiếp cận khác nhau. Tính đến nay có khoảng 200 định nghĩa về văn hóa được giới thiệu. Mặc dù có cách tiếp cận khác nhau, nhưng các định nghĩa này có điểm chung là cùng chỉ rõ rằng văn hóa là do con người tạo nên và phải học chứ không phải do tiến hóa sinh học hay do một thế lực siêu nhiên nào mang đến cho con người. Định nghĩa của Tylor cũng như cách tiếp cận của Ông đóng vai trò bước ngoặt trong nghành nhân học hiện đại. Nó đưa nhân học sang một trang mới, chỉ ra rằng con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, thay vì những giải thích mang tính thần học, hay sinh học. Liệu văn hóa chỉ tồn tại ở xã hội loài người hay còn ở các xã hội động vật khác nữa? Câu trả lời tùy thuộc vào việc chúng ta định nghĩa thế nào là văn hóa? Bởi vì trong một số chừng mực nào đó một số loài vật cũng có khả năng học và sử dụng công cụ trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ trong xã hội loài tinh tinh, và các loài họ khỉ khác. Tinh tinh mẹ dạy tinh tinh con về các loại cây thức ăn và thuốc. Ngoài ra tinh tinh con cũng phải học về tôn ty thứ bậc và các quy tắc xã hội trong cộng đồng của mình.
Các lớp của văn hóa
Về cơ bản văn hóa được chia và xem xét dưới ba lớp: Lớp thứ nhất và hay được đề cập đến nhất giúp phân biệt xã hội bạn đang sống với các xã hội khác. Ví dụ khi nói đến văn hóa Nhật hay Trung Quốc, người ta thường đề cập đến một cộng đồng nói chung một ngôn ngữ, có chung truyền thống, tín ngưỡng làm cộng đồng đó khác và riêng biệt đối với các cộng đồng khác, ví dụ Việt Nam, Pháp... Lớp thứ hai thường được đề cập đến như là tiểu văn hóa hay văn hóa nhóm (subculture). Hiện tượng này thường được thấy trong các xã hội đa sắc tộc, trong đó cư dân đến từ nhiều vùng khác nhau. Và họ thường gìn giữ một phần của nền văn hóa truyền thống của họ: ngôn ngữ, truyền thống, thức ăn... Bản sắc riêng này tách biệt họ so với phần còn lại của xã hội. Ví dụ cho lớp văn hóa này là xã hội Mỹ, gồm nhiều sắc tộc dân di cư: người gốc Châu Phi, người gốc Châu Á, nguời gốc Mỹ Latin... Khi mà sự khác biệt hay ranh giới văn hóa giữa các thành viên của tiểu văn hóa và các thành viên của văn hóa "đa số" mờ đi và cuối cùng biến mất, thì các tiểu văn hóa sẽ không còn tồn tại. Đó là khi các tiểu văn hóa bị văn hóa đa số đồng hóa. Lớp thứ ba của văn hóa là tập hợp của các khuôn mẫu hành vi có được thông quá quá trình học chỉ tồn tại trong xã hội loài người. Ví dụ cho các khuôn mẫu này là: khả năng ngôn ngữ, hôn nhân, thân tộc....
Văn hóa và xã hội
Văn hóa và xã hội là hai khái niệm không thể tách rời vì văn hóa không phải là sản phẩm của bất cứ cá nhân đơn lẻ nào. Văn hóa được tạo ra, truyền lại thông qua sự đồng thuận của tất cả các thành viên trong xã hội. Một học giả đã nói rằng xã hội không chỉ là tập hợp của của các sinh vật gọi là người và con người được gọi là con người đúng nghĩa khi mà họ sống trong xã hội. Tuy nhiên văn hóa và xã hội là hai khái niệm tách biệt. Văn hóa là tổng thể của các hình thái ứng xử, tư duy có tính chất khuôn mẫu, trong một chừng mực nào đó chỉ tồn tại ở loài người, còn xã hội là tập hợp của các cá thể đơn lẻ có tương tác với nhau. Giống loài người, nhiều loài khác như kiến, mối.... cũng là động vật xã hội. Và thông thường, xã hội loài người thường bị giới hạn bởi các thể chế chính trị, tức là nhà nước. Và phần lớn trong các trường hợp, quan hệ giữa văn hóa và xã hội giống như hai đường tròn có cùng tâm và bán kính: trùng khít với nhau. Ví dụ, khi nói đến xã hội Nhật, thì thông thường ranh giới của xã hội đó sẽ được hiểu là là mọi thành viên trong biên giới của nước Nhât. Tuy nhiên một số trường hợp, có thể văn hóa và xã hội không trùng trùng lặp. Ví dụ về mặt xã hội, Mỹ và Canada là hai thực thế tách rời, tuy nhiên về mặt văn hóa rất khó để phân biệt vì có nhiều điểm chung về văn hóa giữa hai xã hội đó, ví dụ như ngôn ngữ, nguồn gốc.
Các thành tố của văn hóa
Phần lớn các nhà nhân học đồng ý rằng văn hóa bao gồm bốn thành tố chính - Giá trị, Chuẩn mực, Truyền thống, và Đồ tạo tác - mà chỉ có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua việc truyền thụ và tiếp nhận giữa các thế hệ. Giá trị gồm các tiêu chuẩn về điều quan trọng trong cuộc sống, có vai trò định hướng các thành tố khác của văn hóa. Chuẩn mực: bao gồm các mong đợi mang tính xã hội / cộng đồng về việc các thành viên sẽ hành xử như thế nào trong các tình huống khác nhau. Mỗi một xã hội có một hình phạt riêng ,để kiểm soát đảm bảo các thành viên phải tuân thủ các chuẩn mực đó. Các chuẩn mực mà được thực thi một cách chính thức sẽ được xem là luật. Truyền thống là cấu trúc của xã hội trong đó các giá trị và chuẩn mực được lưu truyền. Đồ tạo tác là khía cạnh vật chất của văn hóa, có bắt nguồn từ các giá trị và chuẩn mực. Trong khi các nhà nhân học văn hóa tập trung vào phần biểu tượng, phi vật thể của văn hóa, giá trị, chuẩn mực và truyền thống, thì các nhà khảo cổ tập trung vào khía cạnh vật chất, các đồ tạo tác văn hóa. Đồng thời họ có cùng mối quan tâm về mối liên hệ giữa hai khía cạnh đó của văn hóa.
Văn hóa và văn minh
Ngày nay nhiều người vẫn cho là "văn hóa" được phát triển ở Châu Âu ở thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Quan điểm này thể hiện sự "bất bình đằng" giữa các xã hội phương Tây và các xã hội thuộc địa. Nó quy đồng văn hóa với văn minh và tương phản với "tự nhiên". Theo quan điểm này thì một vài xã hội sẽ văn minh hơn các xã hội khác và một vài nhóm người sẽ cũng văn hóa hơn các xã hội khác. Quan điểm này trùng hợp với thuyết tiến hóa của Tylor và Morgan, xếp các xã hội Âu Mỹ ở bậc cao nhất của thang tiến hóa mà các xã hội khác một lúc nào đó sẽ đạt tới. Tuy nhiên, ngày nay, đại đa số các nhà nhân học thống nhất rằng mọi xã hội loài người đều có văn hóa và văn minh là kết quả một số xã hội đạt được. Tuy nhiên, không dễ để đi đến một định nghĩa chung về thế nào thì được gọi là văn minh. Thay vào đưa ra một định nghĩa chung, các nhà nhân học trong đó có Vere Gordon Childe, một nhà khảo cổ người Úc, đưa ra một số tiêu chí của văn minh:
· Nông nghiệp thâm canh: tưới tiêu, có sử dụng sức người...
· Phân công lao động giữa các thành viên trong xã hội
· Có các trung tâm dân cư phi nông nghiệp: thành phố
· Có hệ thống chính trị: chế độ đầu lĩnh, nhà nước...
· Có hoạt động trao đổi kinh tế
· .......
Chủ nghĩa vị văn hóa và tương đối văn hóa
Vị văn hóa sử dụng các tiêu chí của nền văn hóa của mình để đánh giá các nền văn hóa khác. Mọi sự khác biệt văn hóa đều bị coi là thấp hơn. Chủ nghĩa này đi liền với thời kỳ phát triển ban đầu của Nhân học, khi mà các nền văn hóa Âu Mỹ được xem là thước đo đánh giá. Thậm chí cho đến nay, nó vẫn còn phổ biến vì mọi người thường vẫn nghĩ là các cách giải thích theo truyền thống, văn hóa của họ là đúng, là đạo đức. Họ xem các hành vi không giống vậy là kỳ lạ hay mông muội. Ngược với Vị văn hóa, chủ nghĩa Tương đối văn hóa cho rằng các lối hành vi / ứng xử của các nền văn hóa cụ thể phải được đặt trong bối cảnh của nền văn hóa đó, chứ không phải đánh giá bằng những tiêu chí của nền văn hóa khác. Theo chủ nghĩa này không có nền văn hóa nào cao hơn, không có tiêu chí đạo đức chung mang tính phổ quát của loài nguời. Các quy tắc đạo đức của tất cả các nền văn hóa phải được tôn trọng như nhau. Tuy nhiên, nếu nhìn theo cách đó thì Chủ nghĩa phát xít Đức cũng sẽ được xếp ngang bằng với nền văn minh Hy Lạp.
Đặc điểm của văn hóa
Nhìn dưới góc độ là một hệ thống hệ thống các giá trị, niềm tin và quan điểm được chia sẻ và truyền thụ , có ảnh hưởng tới và định hình nhận thức và hành vi của các thành viên, văn hóa có các đặc điểm sau:
- Truyền thụ / học: Nó không phải do di truyền sinh học và được truyền lại và tiếp nhận giữa các thế hệ.
- Được chia sẻ giữa các thành viên của xã hội / nền văn hóa đó. Không một cá nhân đơn lẻ nào có thể xây dựng được cả nền văn hóa.
- Khuôn mẫu: Các thành viên của cùng một xã hội tư duy và sống theo những khuân mẫu nhất định.
- Được cộng đồng xây dựng: Tất cả thành viên của xã hội tham gia vào xây dựng văn hóa thông quá quá trình tương tác với các thành viên khác.
- Có tính biểu tượng: văn hóa, tư tưởng, và ngôn ngữ được xây dựng dựa trên các biểu tượng và ý nghĩa đi kèm.
- Phi tự nhiên / Nhân tạo: không phụ thuộc vào các quy luật tự nhiên, ngược lại do con người, với tư cách là thành viên xã hội xây dựng. Ví dụ tiêu chuẩn về cái đẹp ở mỗi nền văn hóa là khác nhau.
Chức năng của văn hóa
Vậy văn hóa có chức năng gì đối với con người? Tổ tiên đầu tiên của loài người xuất hiện ở vùng cận nhiệt đới của Châu Phi khoảng 2.5 triệu năm trước. Kể từ thời điểm đó, loài người đã dần dần di chiếm cứ mọi vùng trên trái đất. Tuy nhiên về mặt sinh học cơ thể chúng ta vẫn thuộc về lớp sinh vật ở vùng khí hậu nóng. Chúng ta không thể tồn tại ở ở vùng lạnh mà không có kiến thức và công nghệ (một phần của văn hóa) thích ứng với điều kiện khí hậu ở đó. Tổ tiên chúng ta đã di cư đến vùng cực Bắc bán cầu khoảng nửa triệu năm trước nhờ vào những phát minh về cung tên, giáo mác, lửa, quần áo, nhà cửa... Văn hóa là cơ chế giúp cho loài người thích nghi với các môi trường sống đa dạng trên địa cầu. Nhờ văn hóa chúng ta có lợi thế trong cuộc đấu tranh sinh tồn với các sinh vật khác, và giữa các tộc người. Nhờ văn hóa mà dân số loài người đã tăng từ 10 triệu ở cuối Kỷ băng hà cuối tới 6.5 tỉ của ngày nay. Cũng nhờ văn hóa, mà chúng ta trở thành giống sinh vật nguy hiểm và tàn phá nhất của hành tinh này. Loài người không thể tồn tại mà không có văn hóa. Bên cạnh đó, văn hóa giúp chúng ta xác định các hành động được phép hay không được phép làm từ vai trò của chồng, vợ, cha mẹ, đến cách ăn mặc ứng xử....Các quy tăc văn hóa này biến đổi ở các xã hội khác nhau. Ví dụ cách ăn mặc thoáng của phụ nữ phương Tây sẽ bị coi là cấm kỵ ở các nước đạo Hồi.
Thay đổi văn hóa
Mọi văn hóa có khuynh hướng vùa chấp nhận vừa chống lại thay đổi. Nói một cách khác các khuynh hướng tân tiến khuyến khích cái mới, trong khi những khuynh hướng bảo thủ cố chống lại cái mới, gìn giữ cái cũ. Có ba nguyên nhân dẫn đến thay đổi văn hóa:
o Do sự thay đổi nội tại của xã hội
o Sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa
o Sự thay đổi trong môi trường tự nhiên
Văn hóa thay đổi qua thời gian chứ không phải là cái gì bất biến. Tuy nhiên tốc độ của sự thay đổi khác nhau giữa các xã hội. Ví dụ của sự biến đổi văn hóa là phụ nữ ngày càng tham gia nhiều vào những công việc trước đây thuộc về phái mạnh: cảnh sát, quân đội.
Tổng hợp và biên soạn: Tùng Nguyễn
|