Nhân học y học là một chuyên ngành trong nhân học. Tuy nhiên không có gì thực sự là khác biệt giữa nhân học y học và các nhóm nhân học khác. Sự khác biệt duy nhất là sự lựa chọn trọng tâm nghiên cứu. Mục đích của nhân học y học là tìm hiểu các cảm nhận của đối tượng nghiên cứu về thân thể, sức khoẻ và bệnh tật của họ cũng như các hành động của họ liên quan đến các vấn đề này. Các nhà nhân học y học không nhất thiết phải được đào tạo chuyên ngành y. Họ được đào tạo để biết cách áp dụng các khoa học xã hội vào việc giúp hiểu rõ hơn về các vấn đề sức khoẻ của mọi người cũng như về cách thức mọi người tiếp nhận và xử trí các vấn đề sức khoẻ của họ.
Các nghiên cứu về sức khoẻ sinh sản cũng quan tâm đến thân thể và các ảnh hưởng của tình dục và sinh sản lên thân thể và sức khoẻ. Do vậy, các nghiên cứu nhân học về sức khoẻ sinh sản có thể sử dụng các phương pháp và khái niệm của nhân học y học. Chương này sẽ giới thiệu một số khái niệm lý thuyết và khái niệm phân tích phổ biến nhất của nhân học y học nhằm giúp các nghiên cứu viên có thể đề cập được các vấn đề sức khoẻ cùng với bối cảnh xã hội và văn hoá. Trước hết, phần trình bày sẽ mô tả cách thức tiếp cận của những nhà nhân học y học trong việc tìm hiểu quan niệm của các đối tượng nghiên cứu về thân thể và sức khoẻ của họ. Phần tiếp theo sẽ trình bày về các phương pháp nghiên cứu hệ thống y tế trong nhân học. Đây là hai vấn đề chủ yếu trong hầu hết các nghiên cứu nhân học y tế và chính hai vấn đề này đã khơi mở chủ đề cho nghiên cứu nhân học mà chúng tôi đã tiến hành ở huyện Quỳnh Lưu.
Cảm nhận về thân thể và sức khoẻ
Một vấn đề trọng tâm trong nghiên cứu nhân học y học là sự phân định giữa ốm đau và bệnh tật (Kleinman 1980). Khái niệm bệnh tật (disease) đề cập đến tình trạng sức khoẻ dựa trên ý kiến của các nhà chuyên môn y với các lý giải mang tính khoa học và các đo lường khách quan. Theo quan điểm y học, khi có bệnh thì nguyên nhân chủ yếu là các rối loạn thể chất/sinh lý còn các yếu tố xã hội và tâm lý chỉ đóng vai trò thứ yếu. Ngược lại, khái niệm ốm đau (illness) đề cập đến quan điểm của bản thân người bệnh đối về sức khoẻ của họ. Theo quan điểm của người bệnh, ốm đau không phải chỉ là vấn đề sinh lý đơn thuần mà nó còn liên quan đến rất nhiều vấn đề khác như nghèo đói, làm việc quá sức, ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội hay ảnh hưởng của yếu tố tâm linh đến cuộc sống. Ví dụ như ở Việt Nam khi một đứa trẻ bỗng nhiên bị ốm nặng, gia đình của cháu có thể sẽ cho rằng đấy không chỉ là do tác động của vi khuẩn mà có thể còn là do sự nổi giận của ông bà, tổ tiên. Ngày nay nhiều nghiên cứu viên nói rằng không thể phân biệt được rõ ràng giữa ốm đau và bệnh tật vì các bệnh lý thực thể cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc sống văn hoá và xã hội (ví dụ xem Kleinman 1995). Tuy nhiên, một lần nữa các nhà nghiên cứu cần phải nhớ rằng điểm quan trọng trong nghiên cứu nhân học chính là sự phân biệt giữa quan điểm của người trong cuộc (cảm nhận về sự ốm đau) và việc đo lường các rối loạn thể chất của người ngoài cuộc (bệnh tật). Nhân học nghiên cứu các cảm nhận của đối tượng về ốm đau vì các cảm nhận này sẽ giúp các nhà nghiên cứu hiểu thêm các yếu tố bối cảnh trong cuộc sống của họ (xem thêm Castle 1994).
Trên thực tế, mỗi người cảm nhận sự ốm đau theo một cách khác nhau nên người ta cũng gọi các vấn đề gặp phải khi đau ốm theo những cách khác nhau. Các thuật ngữ chỉ sự ốm đau ở một ngôn ngữ này thường không thể được dịch trực tiếp ra một ngôn ngữ khác. Hay một thuật ngữ được sử dụng trong một hệ thống y học (ví dụ như Tây y) không có sự phiên giải trực tiếp trong một hệ thống y học khác (ví dụ như Đông y). Đôi khi người ta chẩn đoán được bệnh theo tác nhân gây bệnh. Điều này thường gặp trong Tây y (ví dụ: vi khuẩn gây nên bệnh lao). Ở miền đông Uganda, người ta sử dụng các thuật ngữ ốm đau khác nhau để miêu tả mức độ nặng của bệnh. Sốt, ỉa chảy, phát ban và các triệu chứng khác đều có thể được gọi là “koyo” nếu người đó thực sự ốm rất nặng và được gọi là “musujja” nếu tình trạng bệnh không đe doạ tính mạng (xem Mogensen 2000). Đôi khi, giống như trong trường hợp “bệnh phụ nữ” (bệnh phụ khoa) ở Việt Nam, tên của bệnh có liên quan đến các quan niệm mang tính xã hội và văn hoá về giới và trách nhiệm hơn là theo nguyên nhân hay các triệu chứng của các bệnh nằm trong nhóm “bệnh phụ nữ”. Bệnh phụ nữ được dùng để chỉ tất cả các loại viêm nhiễm đường sinh sản, các bệnh lây truyền qua đường tình dục và các vấn đề phụ khoa khác mà không có sự phân biệt rõ ràng giữa các bệnh này và do vậy nó làm che lấp một thực tế là một số bệnh trong nhóm “bệnh phụ nữ” có thể thuộc trách nhiệm của nam giới. Các thuật ngữ có thể hàm chứa rất nhiều thông tin về các giá trị văn hoá và xã hội và do vậy nghiên cứu cẩn thận về ý nghĩa chính xác của từng thuật ngữ là việc làm cần thiết. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng cần tìm hiểu sự tương đồng hay không tương đồng giữa các thuật ngữ này với các chẩn đoán Tây y – chứ không chỉ đơn giản là phiên giải các thuật ngữ này sang các bệnh mà người nghiên cứu cho là đối tượng nghiên cứu đang đề cập đến.
Các cảm nhận về ốm đau thường bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố chứ không chỉ bao gồm những gì liên quan đến thể chất và sinh lý. Như Arthur Kleinman đã nói, ốm đau giống như một miếng bọt biển, nó hấp thụ các vấn đề khác nhau trong cuộc sống của một con người. Đôi khi các triệu chứng thực thể lại chính là cách để một người thể hiện ra bên ngoài là có một điều gì đó không ổn không chỉ trong cơ thể họ mà còn cả trong cuộc sống của họ. Một nhiệm vụ quan trọng đối với nhà nhân học là tìm hiểu ý nghĩa của những điều mà đối tượng nghiên cứu đã nói - thông qua các từ ngữ và hành động của họ. Nhà nhân học Mark Nichter (1981) đã đặt ra thuật ngữ “ngôn ngữ của sự đau khổ” (idiom of distress) để các nhà nghiên cứu luôn nhớ đến một thực tế là các triệu chứng thực thể có thể là một phương tiện giao tiếp. Ví dụ, khi những người phụ nữ nông thôn Việt Nam phàn nàn về “bệnh phụ nữ”(bệnh phụ khoa), họ không chỉ nói với các nhà nghiên cứu về các khó chịu như ngứa và khí hư mà họ phải chịu đựng hàng ngày. Nếu lắng nghe kĩ hơn, các nhà nghiên cứu sẽ thấy rằng họ còn nói với chúng ta về sự nghèo túng: họ phải làm việc trong nước bùn trong nhiều giờ và không bao giờ có thời gian để chăm sóc cho thân thể và sức khoẻ của bản thân. Các nhà nghiên cứu cũng có thể thấy các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới khi những người phụ nữ nói về việc không thể nói “không” khi chồng có muốn quan hệ tình dục, về mối nghi ngờ của họ đối với sự chung thuỷ của chồng khi chồng đi làm xa. Nói một cách khác, bằng cách lắng nghe các câu chuyện của đối tượng nghiên cứu về các vấn đề sức khoẻ và các nguyên nhân gây nên các vấn đề này, các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu được rất nhiều – không chỉ về thân thể của đối tượng nghiên cứu mà còn về cuộc sống thường nhật của họ và nỗi khó nhọc của họ để đảm bảo một cuộc sống tằn tiện.
Những người trong cuộc và người ngoài cuộc thường có quan điểm không giống nhau. Do vậy, luôn có sự không nhất quán giữa quan niệm của nhân viên y tế và của bệnh nhân về cùng một vấn đề sức khoẻ. Theo Arthur Kleinman (1980), mỗi nhóm có thể áp dụng các mô hình lý giải (explanatory model) khác nhau để lí giải và điều trị bệnh tật. Các mô hình lý giải đưa ra các giải thích về vấn đề sức khoẻ và hướng điều trị. Có thể lấy việc sử dụng vòng tránh thai ở Việt Nam là một ví dụ. Theo quan điểm của nhân viên y tế, vòng đơn giản là một biện pháp tránh thai hiệu quả và an toàn. Tuy nhiên, từ quan điểm của người sử dụng, vòng lại được xem như một “vật lạ” có thể gây ra rất nhiều vấn đề sức khoẻ như yếu mệt, chóng mặt, rối loạn kinh nguyệt (Gammeltoft 1999). Nói một cách khác, nhân viên y tế và người sử dụng vòng có những mô hình lý giải khác nhau khi hiểu về tác động của vòng lên cơ thể con người. Trong chương 4 chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn về các cảm nhận và xử trí của người dân huyện Quỳnh Lưu đối với các vấn đề sức khoẻ thường gặp.
Hệ thống chăm sóc sức khoẻ từ quan điểm của nhân học
Giống như những thứ khác, hệ thống y tế cũng bị qui định bởi xã hội. Do vậy, trên thế giới có rất nhiều hệ thống y tế khác nhau. Ở nhiều khu vực trên thế giới, người ta có xu hướng nghĩ rằng y học chỉ bao gồm nền y học “Phương Tây”. Tuy nhiên ở Việt Nam việc tồn tại song song nhiều nền y học khác nhau đã có một lịch sử lâu đời. Các nghiên cứu nhân học quan tâm đến tất cả các loại dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sẵn có cho con người. Thuật ngữ trong nhân học y học được dùng để chỉ việc cùng tồn tại song song nhiều nền y học là đa nguyên y học (medical pluralism) (Foster 1976). Đa nguyên y học thể hiện việc có nhiều lựa chọn về chăm sóc sức khoẻ khác nhau sẵn có cho mọi người. Mặt khác, đa nguyên y học cũng có nghĩa là các vấn đề sức khoẻ có thể được hiểu và điều trị theo nhiều cách khác nhau.
Nhà nhân học Arthur Kleinman (1980) đã giới thiệu mô hình khu vực (sector model) như là một công cụ để tìm hiểu về các hoạt động của hệ thống y tế. Ông gợi ý việc nghiên cứu hệ thống y tế phải xem xét 3 khu vực khác nhau: khu vực chuyên môn (professional sector), khu vực truyền thống dân gian (folk sector) và khu vực phổ thông đại chúng (popular sector). Mỗi khu vực này sẽ có cách giải thích và điều trị các vấn đề sức khoẻ theo cách khác nhau. Khu vực chuyên môn bao gồm các chuyên gia y học. Khu vực này được tổ chức một cách chính thống và được công nhận về pháp luật. Ở Việt Nam, khu vực chuyên môn bao gồm cả những người hành nghề Tây y và Đông y. Hai nhóm này đều được chuyên nghiệp hoá. Chỉ những người được đào tạo đầy đủ theo yêu cầu và trực thuộc một tổ chức nào đó mới được phép hành nghề. Khu vực dân gian bao gồm các thầy lang, thầy cúng, pháp sư và các bà mụ vườn. Những thầy lang này không thuộc hệ thống y tế chính thống. Các cách chữa bệnh của họ có thể là mang tính chất thần bí hoặc dân dã hoặc là phối hợp cả hai cách này. Ở Việt Nam, những người hành nghề trong khu vực truyền thống dân gian bao gồm thầy cúng, thầy bói, thầy lang và bà đỡ. Cuối cùng, khu vực phổ thông đại chúng là khu vực của người dân, những người không có chuyên môn. Khu vực này chiếm phần lớn nhất trong bất kì hệ thống chăm sóc sức khoẻ nào. Đây chính là khu vực diễn ra hầu hết các hoạt động chăm sóc sức khoẻ. Người ốm thường được phát hiện và nhận được các chăm sóc đầu tiên cũng thường là tại khu vực này. Khu vực phổ thông cũng bao gồm cả hoạt động tự chăm sóc sức khoẻ. Trong bối cảnh sức khoẻ sinh sản ở Việt Nam, các ví dụ về việc thực hành y tế trong khu vực này bao gồm kiêng cữ khi mang thai và sau đẻ, tắm lá, rửa nước muối để điều trị các viêm nhiễm đường sinh sản, hoặc sử dụng thuốc Tây y mua từ những người bán thuốc. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cần lưu ý là các khu vực khác nhau trong hệ thống chăm sóc sức khoẻ cũng có phần chồng chéo nhau (xem hình 3).
Hình 3
Đôi khi khó mà xác định được một hành vi chăm sóc y tế là thuộc khu vực y học nào. Ví dụ, ở Việt Nam, các loại thảo mộc đôi khi cũng được sử dụng trong các phương pháp điều trị mang tính thần bí. Do vậy khó mà nói được điều trị bằng thảo mộc là thuộc khu vực chuyên môn “Đông y” hay là thuộc khu vực dân gian. Hơn nữa, các hành vi chăm sóc sức khỏe được phát triển trong một khu vực có thể cũng sẽ được sử dụng ở một khu vực khác. Ví dụ như các nữ hộ sinh được đào tạo Tây y vẫn sử dụng châm cứu trong công việc của họ. Mô hình khu vực của Kleinman rất có ích không phải vì chúng ta có thể xếp tất cả mọi người và mọi thứ vào một khu vực nào đó mà vì mô hình này giúp chúng ta thấy rõ hơn các sự đa dạng cũng như sự chồng chéo giữa các khu vực.
Trong tất cả các xã hội, bao giờ một số nền y học cũng có quyền lực và uy tín hơn các nền y học khác. Thông thường, nền y học hiện đại là hệ thống chiếm ưu thế còn các loại hình chăm sóc y tế khác ít được thừa nhận một cách chính thức. Ở Việt Nam, khu vực chuyên môn là khu vực được coi trọng cao nhất cả về mặt xã hội và chính trị. Khu vực chuyên môn được thừa nhận là “khoa học” và được coi là đại diện cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ thống nhất của quốc gia. Do vậy, khu vực này cũng là khu vực mà chúng ta có nhiều kiến thức dựa trên nghiên cứu nhất. Ngược lại, các thực hành chăm sóc thuộc khu vực dân gian thường bị xem thường và đơn giản bị coi là “mê tín”. Tuy nhiên, trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản, khu vực dân gian vẫn đóng một vai trò quan trọng đặc biệt là điều trị vô sinh. Kiến thức và thực hành chăm sóc trong khu vực phổ thông đại chúng là cực kì phong phú và đa dạng. Người dân thường tự xử trí nhiều vấn đề sức khoẻ sinh sản “nhỏ” hàng ngày, như các biểu hiện của các viêm nhiễm đường sinh sản, tác dụng phụ của các biện pháp tránh thai hay các vấn đề trong quan hệ tình dục. Tuy nhiên, cho đến nay có rất ít nghiên cứu xem xét các thực hành chăm sóc sức khoẻ sinh sản hàng ngày ở khu vực phổ thông đại chúng. Người ta có thể có nhiều lý do để tìm hiểu và phân tích sự khác biệt của các khu vực chăm sóc sức khoẻ khác nhau. Đối với nhà nhân học, nội dung của từng khu vực không phải là cái cần quan tâm mà chính là việc người dân sử dụng và chuyển dịch giữa các khu vực này như thế nào. Các nhà nhân học cũng cần phải tìm hiểu mối quan hệ tương tác giữa nhân viên y tế và bệnh nhân cũng như các hành vi chăm sóc sức khoẻ (Janzen 1978).
Các thực hành chăm sóc sức khoẻ hay các hành vi chăm sóc sức khoẻ (health seeking practices) là một trong các chủ đề được nghiên cứu nhiều nhất trong nhân học y học. Vì các lựa chọn về liệu pháp điều trị rất đa dạng và sẵn có, những người có nhu cầu có thể tìm kiếm và chọn lựa các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ theo nhiều cách khác nhau. Những người ốm trên thế giới đều giống nhau. Họ thường rất linh hoạt và thực tế. Họ sẽ thử vài loại hình điều trị khác nhau như một câu tục ngữ của Việt Nam nói "có bệnh thì vái tứ phương". Hầu hết mọi người đều bắt đầu với việc tự điều trị tại nhà. Sau đó họ mới tìm kiếm sự giúp đỡ từ hàng xóm, người bán thuốc hoặc các nhà chuyên môn (xem Kleinman 1980). Trong nghiên cứu về các hành vi chăm sóc sức khoẻ, nhân học chú ý đến việc tìm ra các yếu tố làm ảnh hưởng tới quyết định của người bệnh khi lựa chọn một loại hình dịch vụ cụ thể. Đó có phải là do khả năng tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giá thành hay là vấn đề chất lượng dịch vụ chăm sóc? Đó có phải là do cách mà nhân viên y tế chào hỏi và tiếp đón khách hàng? Hay đó là do cách nhân viên y tế giải thích về các nguyên nhân của bệnh cho khách hàng? Ở Việt Nam, tỷ lệ sử dụng đối với nhiều loại dịch vụ là khá thấp. Ví dụ, nhiều phụ nữ thích đẻ ở nhà mặc dù đã được nhân viên y tế và cán bộ địa phương vận động về việc đẻ ở trạm y tế. Nhiều phụ nữ không đi khám thai trước đẻ hoặc khám dưới 3 lần. Nhiều phụ nữ cũng không muốn tham gia chương trình khám phụ khoa định kì. Để hiểu được vì sao người dân lại không sử dụng dịch vụ, các nhà nghiên cứu cần xem xét mối quan hệ của người dân với nhân viên y tế và với các thành viên khác trong gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng cần phải tìm hiểu các quan niệm của người dân về thân thể và sức khoẻ (xem Craig 2002). Chương 5 sẽ trình bày việc sử dụng mô hình khu vực của Kleinman để xem xét một cách toàn diện các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại Quỳnh Lưu và phân tích hành vi chăm sóc sức khoẻ của người dân ở đây.
Các yếu tố bối cảnh của đau ốm và sức khoẻ
Với các nhà nhân học, cơ thể con người, sức khoẻ và đau ốm chỉ có thể hiểu được khi đặt trong bối cảnh cuộc sống hàng ngày của họ. Vấn đề quan trọng là làm thế nào để có thể biết được một cách chính xác các yếu tố bối cảnh cần xem xét là gì? Làm sao các nhà nghiên cứu có thể xác định được các yếu tố xã hội nào là phù hợp và các yếu tố nào là không phù hợp khi tìm hiểu về một vấn đề sức khoẻ? Một vấn đề mà nhà nhân học sẽ luôn quan tâm là các mối quan hệ xã hội (social relations). Con người là những thực thể mang tính xã hội sâu sắc: người ta chỉ có thể nhận ra sự tồn tại của một cá thể thông qua các mối quan hệ xã hội của cá thể đó. Do vậy, để hiểu bất kì một khía cạnh nào của cuộc sống, các nhà nghiên cứu cần phải xem xét các mối quan hệ và tương tác xã hội (social interaction) đã cấu thành cuộc sống. Trong lĩnh vực sức khoẻ sinh sản, các mối quan hệ và tương tác xã hội liên quan bao gồm các mối quan hệ trong gia đình, trong cộng đồng và các mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhân viên y tế. Ví dụ, ở Việt Nam, để giải thích tại sao vẫn còn phụ nữ thích đẻ ở nhà với sự giúp đỡ của mẹ chồng hơn là đi đến trạm y tế, nhà nghiên cứu cần đặt ra các câu hỏi như: cô ấy có quan hệ như thế nào với nhân viên y tế? Cô ấy có cảm giác là nhân viên y tế không tôn trọng cô không? Có phải cô ấy nghĩ là tiền dịch vụ quá đắt không? Cô nghĩ gì về cơ thể và sự sinh nở? Có phải dường như đối với cô việc sinh nở mang tính chất là một sự kiện xã hội nhiều hơn là một sự kiện y tế? Các hỗ trợ xã hội cô nhận được trong cuộc sống hàng ngày là gì? Ai sẽ chăm sóc đứa con hai tuổi của cô ở nhà nếu cô đi đẻ ở trạm y tế? Cô nghe theo lời khuyên về chăm sóc thai và sinh nở của ai trong thời kì mang thai? Cô có thể tự quyết định nơi sinh không? Có phải trên thực tế không phải cô mà chính là chồng cô và bà mẹ chồng 60 tuổi của cô là người quyết định sinh đẻ ở đâu là tốt nhất cho cô? Theo hướng này, khái niệm sức khoẻ sinh sản được mở rộng ra khỏi phạm vi sức khoẻ và y học đơn thuần rất nhiều. Sức khoẻ sinh sản cũng là về gia đình và các mối quan hệ họ hàng, về giới, về quyền lực và sự kiểm soát.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu các yếu tố xã hội của ốm đau và sức khoẻ, các nhà nghiên cứu không chỉ quan tâm đến các mối quan hệ cá nhân mà còn phải biết xem xét các yếu tố ẩn chứa dưới các mối quan hệ này. Trên khắp thế giới, cuộc sống của con người bị ảnh hưởng bởi các điều kiện xã hội, kinh tế và chính trị. Do đó, bên cạnh việc xem xét các mối quan hệ và tương tác xã hội, nhân học y tế cũng xem xét các bối cảnh xã hội và kinh tế quy định cuộc sống con người. Nếu muốn hiểu vì sao các mối quan hệ xã hội lại được định hình theo cách mà chúng ta thấy, các nhà nghiên cứu phải hiểu được các vấn đề sâu sa ẩn chứa dưới các mối quan hệ và tương tác này và nhìn vào các điều kiện lịch sử cũng như hệ thống đã hình thành nên các mối tương tác này. Ví dụ, nghèo thường có tác động mạnh mẽ đến các hành vi chăm sóc sức khoẻ. Những người nghèo thường tiếp xúc với nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng lại thiếu tiếp cận tới các nguồn lực kinh tế. Đây có thể là nguyên nhân khiến những người nghèo không sử dụng một số dịch vụ y tế mà lẽ ra họ sẽ sử dụng nếu không nghèo. Một điều kiện mang tính hệ thống quan trọng khác là sự bất bình đẳng về giới: do địa vị xã hội thấp, phụ nữ sẽ khó thể hiện được tính chủ thể (agency) của mình trong các vấn đề liên quan đến tình dục và sức khoẻ sinh sản. Đây là vấn đề không phải chỉ ở Việt Nam mà ở khắp thế giới.
Trường hợp của nhân học
Các cảm nhận khi ốm đau, ngôn ngữ của sự đau khổ, chủ nghĩa đa nguyên y học, các khu vực chăm sóc y tế và hành vi chăm sóc sức khoẻ là một số khái niệm phân tích mà chúng tôi đã sử dụng để phát triển khung nghiên cứu ở Quỳnh Lưu (xem chương 3). Những khái niệm này cũng được sử dụng trong phân tích và do vậy cũng sẽ được thể hiện trong phần trình bày kết quả thực địa ở chương 4 và 5. Ngoài ra, quá trình thực địa và phân tích thông tin cũng liên quan tới một số khái niệm khác mà chúng tôi sẽ giới thiệu sau ở các phần này. Điều này đã minh hoạ cho quá trình chuyển động liên tục giữa các khái niệm phân tích và số liệu thực địa trong nghiên cứu nhân học.
Các khái niệm phân tích được trình bày ở đây không thể thể hiện một cách đầy đủ các vấn đề nghiên cứu trong nhân học y học. Các khái niệm này được lựa chọn cho khoá học và nghiên cứu nhỏ này vì chúng tôi thấy đây là những công cụ hữu hiệu giúp thu thập những thông tin nền ban đầu. Trong các nghiên cứu trong tương lai, các khái niệm phân tích khác có thể hữu ích hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng mà các nhà nghiên cứu cần lưu ý là để có thể thực hiện được nghiên cứu nhân học, tức là tiến hành các so sánh để có được các phân tích và các hiểu biết mang tính nhân học, nhà nghiên cứu phải lựa chọn một khung lý thuyết và các khái niệm phân tích phù hợp. Đây chính là bước đầu tiên giúp định hình các câu hỏi của nghiên cứu và các thông tin thu được trên thực địa. Vì đặc thù của nghiên cứu nhân học là cách tiếp cận mở, nên chúng ta sẽ phải liên tục điều chỉnh khung lý thuyết cho phù hợp với các phát hiện trên thực địa (xem chương 3).
(Trích dẫn từ http://reach.gopfp.gov.vn/Vietnam/Publication%20V5.htm bởi Nhân học y tế)
Nguồn: blog Ho Ngoc Tri