SGTT.VN - Có một sân chơi mang tính học thuật hiếm hoi đã duy trì đều đặn hai năm nay giữa lòng TP.HCM, hàng tuần quy tụ không ít giới trí thức và sinh viên, với những chủ đề thú vị như Dạy và học triết trong bối cảnh hậu hiện đại, Hãy dám biết, Phận người trong phim nhân học, Xây dựng thương hiệu bản thân… Cha đẻ chương trình này là TS Nguyễn Đức Lộc – giảng viên chuyên ngành nhân học đại học Khoa học xã hội và nhân văn, đại học Quốc gia TP.HCM.
Không gian nào đã giúp cà phê học thuật Nhân văn có thể tiếp cận một cách đầy hào hứng với những vấn đề học thuật khó khăn và có vẻ xa lạ với sinh viên?
 |
TS. Nguyễn Đức Lộc. Chân dung tự họa : Nguyễn Trung |
Điều chúng tôi có và hằng vun đắp chính là tinh thần tự do học thuật hay nói đúng hơn là tinh thần của đại học, nơi mà những người yêu thích khoa học có thể thoải mái trò chuyện những điều mình quan tâm. Càphê – học thuật tưởng như hai điều trái ngược nhau nhưng thực ra sự kết hợp này đã mang lại một không gian cởi mở, dễ dàng trao đổi, tiếp thu lẫn nhau mà không chịu bất cứ sự ràng buộc nào ngoài tinh thần khoa học. Một không gian học thuật cởi mở như vậy còn tạo điều kiện cho sinh viên nói lên chủ kiến của mình với tinh thần “tự do học thuật”, dám phát biểu những ý kiến đối lập, rèn luyện khả năng tư duy khác biệt chứ không chỉ “thầy nói trò nghe”.
Ông có hy vọng nơi đây sẽ tạo cảm hứng cho những sinh viên tâm huyết có thể theo đuổi đến cùng con đường nghiên cứu khoa học, từ những tấm gương người thầy cụ thể, gần gũi, tạo ra những xu hướng, những trào lưu mới trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn?
Trong một nền giáo dục mang nặng tính truyền thụ một chiều như Việt Nam cùng với trào lưu thương mại hoá giáo dục hiện nay thì thật khó để tạo cảm hứng cho những người mới chập chững bước đi trên con đường gian nan của khoa học.
Tuy vậy, chúng tôi tin rằng ngoài những bi quan thường thấy ngoài xã hội, chúng ta vẫn còn những cá nhân tâm huyết với sự nghiệp khoa học, giáo dục nước nhà. Việc những người thầy, những nhà khoa học đến càphê học thuật để trò chuyện, tạo cảm hứng cho người trẻ sẽ là chất men nuôi dưỡng những đam mê. Nơi đây sẽ ươm những hạt mầm khoa học, nơi gặp gỡ của sự hiểu biết và yêu mến tri thức. Hy vọng rằng trong thời gian không xa sẽ có những trào lưu mới trong nghiên cứu khoa học thực sự. Từng là một nước thuộc địa đã qua bao năm tháng chiến tranh, nền học thuật của chúng ta lạc hậu rất nhiều so các nước. Cần phải nhanh chóng tiếp thu nền tri thức nhân loại để có thể cảm và đồng hành với tri thức nhân loại trong thời đại mình đang sống.
Làm thế nào để tạo ra những cuộc tranh luận sôi nổi và sòng phẳng giữa những quan điểm học thuật trái ngược?
Có lẽ chúng ta cần xây dựng các nguyên tắc đạo đức diễn ngôn. Cuộc tranh luận chỉ có thể sôi nổi và sòng phẳng khi những người tham gia được tự do phát biểu và có trách nhiệm tôn trọng những ý kiến khác nhau. Chỉ có như thế chúng ta mới có những cuộc tranh luận khoa học thực sự.
Khi một nhà khoa học, nhất là khoa học xã hội và nhân văn, có những bất đồng quan điểm với thực tại, hoặc đi trước thực tại, thì làm thế nào để họ không bị tước mất khả năng nghiên cứu bình thường, tước mất khả năng sáng tạo?
Nhân loại đã phải chứng kiến không ít bi kịch của những nhà khoa học lớn vì bất đồng quan điểm, vì có tư tưởng đi trước thực tại. Và cũng thật nghịch lý, nhờ những bi kịch đó mà chúng ta mới có những thành tựu như ngày nay.
Nếu như ai cũng thoả hiệp với với hiện tại, cùng hùa về một hướng thì làm sao có những tri thức tinh hoa của nhân loại?
Nói đến đây, tôi nhớ đến Nietzsche, ông kêu gọi mỗi người chúng ta phải có ý chí quyền lực, phải biết tìm ra những giá trị mới chứ không trú thân trong hằng hà những giá trị cũ, lỗi thời bủa vây chúng ta và theo ông, xã hội phải biết bảo vệ kẻ mạnh, tức là những người biết tạo ra những giá trị mới, những giá trị tinh hoa cho đời sống xã hội. Có như thế các nhà khoa học mới có thể làm việc bình thường, không bị tước đi khả năng sáng tạo của mình.
Động lực nào giúp ông suốt ba năm qua nuôi dưỡng được trang web Bảo tàng ký ức xã hội, như một giếng nước trong đánh thức những giá trị cộng đồng quý giá? Ông nghĩ gì về trách nhiệm của người trẻ với cộng đồng?
Tri thức nhân loại thì ta chưa lĩnh hội đủ, trong khi đó, vốn quý của cha ông, của dân tộc thì đang mất rất nhanh. Có những sự kiện lịch sử mới trải qua vài chục năm như thời bao cấp mới đây thôi, vậy mà tư liệu cho việc nghiên cứu khoa học không còn bao nhiêu. Nhiều nhà sử học của ta phải đi Đông đi Tây để tìm hiểu, nghiên cứu một vấn đề nào đó. Nếu làm công việc lưu trữ tốt, ta sẽ có những chứng lý lịch sử để nghiên cứu khoa học, đôi khi là pháp lý cho những tranh biện với quốc gia khác. Xã hội chúng ta đang thay đổi rất nhanh, ký ức về đời sống xã hội cũng qua rất nhanh. Một thành phố không có ký ức, một đất nước không có ký ức là điều chẳng ai muốn. Ký ức ở đây phải gắn liền với cuộc sống, thân phận của con người chứ không phải là con số thống kê, chỉ báo phát triển lạnh lùng.
Chuyên môn của tôi là nhân học, dân tộc học. Trong những chuyến điền dã dài ngày ở các cộng đồng dân tộc thiểu số, sống cùng đời sống người dân và làm công việc ghi chép hàng ngày... có những cộng đồng chúng tôi đi lại gần chục năm, chứng kiến sự thay đổi của họ. Có những sự kiện chính người dân trong cộng đồng cũng không còn nhớ, may thay vẫn còn những bản ghi chép của chúng tôi. Tuy vậy, việc chúng tôi làm chỉ ở những cộng đồng nhỏ, còn đời sống xã hội thì rộng lớn, điều này cần sự tham gia của nhiều người trong xã hội, nhất là những người trẻ. Chúng ta lưu trữ ký ức đời sống xã hội không phải cho xã hội chung chung, mà cho chính chúng ta, cho con cháu chúng ta. Ông bà, cha mẹ chúng ta chính là kho tàng quý giá về tri thức dân tộc, đừng để những tri thức quý giá ấy mất đi trước khi quá muộn. Con cái chúng ta cũng cần biết ông bà, tổ tiên chúng sống ra sao, để lấy đó làm tấm gương cho đời sống xã hội mai sau.
Là người nghiên cứu sâu về đời sống công nhân và đời sống người Sài Gòn, nhất là những người trẻ, vậy theo ông đâu là nguyên nhân dẫn đến sự nghèo nàn trong đời sống tinh thần của công nhân trong các khu công nghiệp? Họ sẽ vượt qua cơn khủng hoảng này như thế nào?
Nhìn vào đời sống công nhân hiện nay tại các đô thị lớn ở Việt Nam, có lẽ những công nhân Việt Nam trước đây cũng không thể lường hết những khó khăn mà công nhân ngày nay đang gặp phải. Nếu như trước kia người công nhân Việt Nam còn có “hậu phương” là mảnh vườn, miếng đất để phòng kế mưu sinh thì người công nhân ngày nay đa phần phải rời xa quê hương đến tập trung tại các khu công nghiệp, khu chế xuất trong sự bơ vơ, thiếu thốn… Và hành trang của họ trong cuộc mưu sinh không gì khác hơn là những ước mơ đổi đời, nhưng thực tế họ chỉ sống cuộc sống tạm bợ của lớp nghèo thành thị. Nói như Mác, họ là “một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống của họ đều phụ thuộc vào số cầu người lao động, tức là vào tình hình chuyển hướng tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh không có gì ngăn nổi”. Đó là chưa kể trong xu hướng toàn cầu hoá, người công nhân càng bị bần cùng hơn. Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nước ta từ động lực lao động giá rẻ, hệ thống phúc lợi xã hội dành cho người lao động mặc nhiên là trách nhiệm của nước sở tại. Khi chuyển sang mô hình “xã hội hoá” các tiểu hệ thống phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế, nhà ở... thì gánh nặng chi phí cuộc sống tiếp tục đè lên vai gia đình và bản thân người lao động. Trước những áp lực như vậy, với đồng lương ít ỏi mà đòi hỏi họ phải sống đàng hoàng đúng phẩm cách con người thật là điều không dễ dàng. Tôi mới có chuyến nghiên cứu, sống dài ngày tại miền Trung, trong các gia đình có người xuất cư đi làm ăn xa ở miền Nam. Có người ra đi kiếm sống thành công, có người thất bại nhưng Sài Gòn, miền Tây (đồng bằng sông Cửu Long – PV) vẫn là điểm đến hấp dẫn của người dân miền Trung hiện tại và trong tương lai. Bởi đơn giản là sự chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam quá cao.
Ông muốn mang lại sự thay đổi nào cho học trò của mình, để giữ được đúng nghĩa của từ “nhà khoa học”?
Nhiều nhà khoa học nước ngoài khi nhận xét về các nhà khoa học Việt Nam đã nói rằng chúng ta không có các nhà khoa học lý thuyết, bởi chúng ta làm cái gì cũng phải thấy được lợi ích trước mắt. Trong giáo dục cũng vậy, chúng ta không chuyên tâm đào tạo ra các nhà khoa học thực sự mà lại có xu hướng đào tạo các “thợ” làm khoa học. Để trở thành nhà khoa học, người ta phải tự học suốt đời để phát triển tư duy, trong khi những người thợ thì chỉ cần những kỹ năng thực hành nghề nghiệp. Đôi khi người giảng dạy đã làm hư người học, họ tạo ra các sản phẩm giáo dục bị lỗi. Họ tạo cho người học suy nghĩ theo kiểu “đi tắt đón đầu” hơn là phát triển về tư duy khoa học. Cái khó là ngày nay chính người học cũng có suy nghĩ tương tự, họ học cách đối phó hơn là khát khao đến với tri thức. Rất có thể do môi trường giáo dục của ta quen theo kiểu truyền thụ một chiều, không tạo ra một không gian học thuật thực thụ. Chính vì vậy, tôi mong muốn trường đại học phải có sự thay đổi phương pháp và tư duy đổi mới trong giáo dục để làm sao đào tạo ra các nhà khoa học thực thụ, chứ không phải là những ông thợ thủ công trong khoa học.
Những diễn đàn ông lập ra đều hoạt động phi lợi nhuận.
Làm thế nào ông vượt qua được áp lực của cuộc sống hàng ngày, của cơm áo gạo tiền mà đi xa hơn trên con đường đã chọn?
Tôi quan niệm những hoạt động đó như những cuộc chơi, mà khi đã chơi, phải chơi đàng hoàng, tử tế, không toan tính. Tôi làm vì chính mục đích tự thân của các hoạt động đó, và được thoả sức đam mê sáng tạo. Điều đó mang lại cho tôi nhiều ý nghĩa. Vì vậy tôi không bị áp lực gì, bởi khi đang “chơi” chính là đang làm việc, nhất là được làm những công việc liên quan đến chuyên môn mình yêu thích.
Những quy tắc sống nào giúp ông vượt qua được những bất trắc của cuộc đời? Cuốn sách nào mở đường cho ông bước vào nghiên cứu nhân học, một ngành còn mới mẻ ở Việt Nam?
Đó là “tận tâm, tận lực” nghĩa là làm việc chăm chỉ, hết mình và luôn giữ cái tâm trong sáng trong công việc. Quyển sách dẫn tôi vào nhân học có lẽ là Nhân học – một quan điểm về tình trạng nhân sinh của Emily Schultz và Robert Lavenda.
Phẩm chất nào giúp ông kết nối những người thuộc đủ mọi lĩnh vực cho cà phê học thuật?
Tôi có thể bảo thủ về những điều thuộc về nguyên tắc sống, nhưng về mặt khoa học tri thức thì mênh mông, mỗi người có cách tiếp cận riêng. Chính vì vậy, tôi tự nhủ mình là người giúp việc cho càphê học thuật. Tôi luôn lắng nghe, tiếp nhận nhiều tiếng nói khác nhau nhưng cũng sẵn sàng tranh luận đến cùng để làm sáng tỏ nhiều vấn đề. Tôi không lẫn lộn giữa sinh hoạt học thuật với các mối quan hệ ngoài xã hội.
Những thăng trầm nào đã giúp ông hiểu biết về cuộc đời, về con người, để hoàn thiện mình mỗi ngày?
May mắn là tôi được đi nhiều, được đến ở trong nhà người dân khắp mọi miền đất, gặp gỡ nhiều cảnh đời trong xã hội. Mỗi cuộc tiếp xúc với người dân giúp cho tôi học và hiểu ra nhiều ý nghĩa trong cõi nhân sinh này. Họ kể cho tôi nghe về cuộc đời họ, những vui sướng, những cay đắng, nhưng vượt lên trên tất cả là họ phải sống một cách đàng hoàng, tử tế. Tôi cũng học được những lễ nghĩa của người nông thôn với những chuẩn mực sống dường như đang bị đánh mất nơi phố thị. Có những giá trị đạo đức ngay cả người có học thức cũng quên mất thì nơi người dân nghèo vẫn còn, đó chính là vốn quý mà tôi góp nhặt được trong những chuyến đi xa.
Bài học từ thất bại mà ông cho là quý nhất?
Trong cuộc sống ta có nhiều thứ để quan tâm, nhưng rất khó để biết được cái gì là quý giá. Chính vì vậy, cần có những vấp ngã để thấy hết được ý nghĩa của cuộc đời. Đôi khi sự thất bại hôm nay dẫn ta đến một ý nghĩa khác ở tương lai. Và ta phải cảm ơn những lần thất bại đó. Tuy vậy, có những thất bại không thể dùng làm bài học cho lần sau được, chẳng hạn như cuộc sống gia đình. Ta chỉ có hạnh phúc khi vun vén cho nó. Trong một môi trường đầy biến động như hôm nay, cuộc sống buộc ta phải lựa chọn cho mình một cách sống, giá trị sống riêng cho mình. Điều này không dễ dàng chút nào. Tất cả phù thuộc vào các quan niệm sống và nền tảng đạo đức mà chúng ta tiếp nhận. Chính vì vậy, vấn đề giáo dục trong gia đình là điều tối quan trọng cho tương lai của những đứa trẻ.
Với ông, thế nào là một ngày lý tưởng? Điều gì đã giúp ông nuôi dưỡng niềm hy vọng vào những điều tốt đẹp ở con người?
Được làm việc và sống với những người yêu thương. Có lẽ trong hoàn cảnh sống hiện nay, chỉ có sự tử tế của con người mới giúp chúng ta sống với đúng phẩm cách của con người.
Thực Hiện: Kim Yến
Báo Sài Gòn Tiếp Thị