So với thế giới, thể loại phim nhân học Việt Nam mới chỉ chập chững những bước đi đầu tiên. Đội ngũ những nhà làm phim nhân học của ta vẫn còn quá ít và thiếu chuyên nghiệp. Đã đến lúc cần phải nhận thức rõ tầm quan trọng của phim nhân học trong xã hội hiện nay, và sớm tìm ra hướng đi mới. Chúng tôi có cuộc trò chuyện với PGS-TS Bùi Quang Thắng (Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam) - người có nhiều kinh nghiệm làm phim nhân học- về vấn đề này.
- Thưa ông, trong bối cảnh xã hội nước ta hiện nay, phim nhân học có vai trò như thế nào?
- Thứ nhất, nó giới thiệu một cách chính xác về văn hóa của các “nhóm thiểu số”. Khi xã hội càng phát triển thì người ta lại càng cần sự sẻ chia. Thứ hai là về mặt chính trị, nhà nước cần sự hỗ trợ của nhân học để hiểu được “nhóm thiểu số” họ muốn gì, qua đó điều hòa các mối quan hệ trong xã hội. Phim nhân học thường đặt vấn đề về xung đột văn hóa lên hàng đầu.
-
Với tư cách là một nhà nghiên cứu văn hóa, ông có nhận xét gì về tình hình làm phim nhân học ở nước ta hiện nay?
- Ở Việt Nam vẫn chưa có một cơ quan, đơn vị nào chuyên sản xuất thể loại phim này. Làm phim nhân học đòi hỏi rất nhiều thời gian và tiền bạc, cho nên những người làm thể loại phim nhân học rất ít, nếu có thì cũng chỉ làm phim dựa theo nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế như quỹ Ford chẳng hạn… còn nhà nước ta vẫn chưa có nguồn đầu tư kinh phí cho việc làm phim nhân học cũng như việc đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực này. Tuy nhiên, cũng có một số cá nhân đứng ra làm phim như Thạc sĩ Phan Ý Ly, từng làm phim về những đứa trẻ ở bãi sông Hồng, rất hay.
- Có phải xu hướng làm phim nhân học hiện nay đặc biệt chú ý đến khía cạnh đời thường, đến “tiếng nói của thiểu số”, và những phim về văn hóa tộc người, thường hay sử dụng lời bình của nhà làm phim thay cho tiếng nói của chủ thể, phải chẳng điều đó mang tính chủ quan, áp đặt?
- Trước hết cần phải hiểu rõ việc nói thay cho chủ thể văn hóa là không nên, và đó là một cách làm cũ. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà cho rằng tiếng nói của chủ thể là một yếu tố quan trọng nhất. Thật ra, đây không phải là nói thay, mà đúng hơn đây chính là nói cùng, nói hộ cho chủ thể, muốn làm được điều đó thì nhà làm phim phải đắm mình và tham dự vào cuộc sống của chủ thể. Những phim kinh điển của thế giới như phim The Hunter (Thợ săn), nhà làm phim phải sống cùng với dân bản địa rất lâu năm, họ am hiểu tri thức bản địa và quy trình săn bắn hươu cao cổ của thổ dân ở Châu Phi, vì vậy mà khi nhà làm phim có nói hộ cho chủ thể thì cũng không mang tính nói thay, mà đó là việc chia sẻ cảm xúc của người trong cuộc. Hiện nay, nhà làm phim muốn để chính chủ thể nhìn nhận, diễn giải sự việc theo cách của họ chứ không muốn để cho người khác nhìn hộ mình. Bởi vì khi làm phim về một tộc người nào đó, chúng ta hoàn toàn không hiểu gì về ngôn ngữ, văn hóa của họ, và chúng ta luôn luôn phải thông quan một lăng kính khác, chẳng hạn nhà làm phim phải thông qua phiên dịch, hoặc là thông qua lời diễn giải của nhà nghiên cứu, nhưng cũng chưa tin chắc rằng họ thực sự hiểu rõ về nền văn hóa ấy. Thế nên khi chúng ta phản ánh sự việc bằng giọng điệu đó thì tất nhiên sẽ có sai lệch. Tốt nhất là để họ tự nói, và trong phim nhân học hiện nay người ta luôn đề cao tiếng nói của chủ thể, những lời diễn giải trong phim phải là của nhân vật. Đồng ý là những nhà làm phim có quyền lồng những lời thuyết minh vào phim để diễn giải hiện tượng, nhưng tốt nhất chỉ nên đóng vai trò là người kể chuyện, không được phép bình luận theo giọng điệu của nhà làm phim. Phim nhân học ngày nay đã mở rộng đối tượng nghiên cứu, và đang hướng đến những vấn đề của cuộc sống đương đại.
- Ông có cho rằng phim nhân học phải do những nhà nhân học làm không?
-Thật ra đây là một vấn đề rất khó nói, bởi vì theo xu thế chung thì không phải tất cả những người làm phim nhân học đều là những nhà nhân học. Và hiện nay có một nghịch lý đang xảy ra trên thế giới đó là phim nhân học thì rất phát triển, nhưng những nhà làm phim nhân học chuyên nghiệp thì rất ít. Điều đó có nghĩa là những nhà làm phim nhân học nghiệp dư phát triển rất nhiều, vì vậy chúng ta chỉ nên gọi đó là những bộ phim được làm theo xu hướng nhân học thì đúng hơn, còn đã là phim nhân học thì phải do những nhà nghiên cứu nhân học làm. - Theo ông, lợi ích của phim nhân học mang lại là gì?
- Theo tôi thì có hai lợi ích. Thứ nhất là thông qua phim nhân học, chúng ta có thể quảng bá được hình ảnh của đất nước ra thế giới. Thứ hai là bản thân những bộ phim đó có thể đem ra kinh doanh. Ở các nước trên thế giới như Mỹ thì họ có hẳn một tổ chức khoa học giáo dục, và tổ chức này sẽ lập ra một hội đồng tuyển chọn, giới thiệu các bộ phim nhân học, họ sẽ mua những bộ phim nhân học có giá trị làm tài liệu phục vụ cho giáo dục. Việt Nam có thể học hỏi mô hình này: chúng ta có thể lấy một phần nào đó trong kinh phí giáo dục để làm phim nhân học, và mình sẽ phổ biến những bộ phim đó ở các trường phổ thông, đại học. Và đó là những kiến thức bằng hình ảnh rất bổ ích, nó bổ trợ rất nhiều cho việc giảng dạy.
- Ông có thể đề xuất hướng phát triển thể loại phim nhân học của Việt Nam trong tương lai?
- Trước hết các viện nghiên cứu, các trường đại học về văn hóa, về khoa học xã hội và nhân văn phải là những đơn vị tiên phong trong lĩnh vực này. Tôi nghĩ, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần ưu tiên và tập trung vào làm những phim nhân học về các nền văn hóa của các dân tộc ít người ở Việt Nam, bởi nó tương đồng với những nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước và sẽ có cơ hội nhận được sự ủng hộ tinh thần cũng như kinh phí từ nhà nước. Còn hướng phát triển lâu dài của phim nhân học là nhà nước sẽ đặt hàng hoặc mua lại những phim hay của những nhà làm phim dân tộc học, nhân học tự do
- Xin cảm ơn ông!
Bùi Nguyên Pháp (Thực hiện) Theo Tạp chí Hồn Việt, số 36, tháng 8/2010