Nhân học văn hóa xã hội hiện đại coi các nghiên cứu thực địa, trong nhiều trường hợp là các case study, là sự khởi đầu cần thiết và tối quan trọng (Hy- 2000) cho quá trình hình thành quan điểm và nhãn quan nhân học, cũng như việc nắm bắt bước đầu các kỹ năng nghiên cứu. Trước đó, dân tộc học cổ điển cũng đã nhấn mạnh đến vai trò của việc điền dã, coi điền dã là nền tảng cho các nghiên cứu dân tộc học, từ đây, tạo nên một khối lượng kiến thức khổng lồ về văn hóa các tộc người.
Thấm nhuần tư duy này, trong nhiều năm, với tư cách là người giảng dạy về nhập môn nhân học văn hóa xã hội của bộ môn văn hóa học, tôi đã thực hành nguyên tắc này trong các hoạt động giảng dạy. Tại hội thảo này, tôi muốn nhìn lại các nguyên tắc này trong bối cảnh của xã hội Việt Nam đang chuyển đổi cũng như các yêu cầu của việc đổi mới và nâng cao công tác nghiên cứu và giảng dạy nhân học.
1. Các đề tài khóa luận cử nhân và luận văn cao học: các hướng nghiên cứu về xã hội chuyển đổi:
Trong 9 năm tham gia giảng dạy tại Bộ môn lịch sử văn hóa và Bộ môn Nhân học, tôi đã hướng dẫn các khóa luận và luận văn sau:
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân:
1. Phạm Cao Quy (2002) Giáp và việc tổ chức lễ hội ở làng Đồng Kỵ ngày nay. Khóa luận cử nhân K.43, Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Hiền (2003) Bích với lễ hội chùa Trăm gian. Khóa luận cử nhân K.44, Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Thanh Hoa (2004) Lễ hội làng Giang Xá (thị trấn Trạm Trôi, Hoài Đức, Hà Tây). Khóa luận cử nhân K.45, Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
4. Trần Thanh Hoa (2004) Biến đổi văn hóa của một cộng đồng làng ven đô (Thôn Yên Duyên, Yên Sở, Thanh Trì, Hà Nội). Khóa luận cử nhân K.45, Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Ánh Hồng (2005). Kinh nghiệm dân gian nghề khai thác hải sản. Khóa luận cử nhân K.46, Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
6. Bùi Thị Kim Phương (2005). Vai trò của các tổ chức xã hội phi quan phương trong làng xã (trường hợp làng Giang Xá, Hoài Đức, Hà Tây). Khóa luận tốt nghiệp K46. Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
7. Nguyễn Công Khanh (2005). Tìm hiểu tập quán ăn chay của người Hà Nội. Khóa luận tốt nghiệp cử nhân. K.46 Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
8. Trần Thị Bích Điệp (2006) Khảo sát trào lưu hip hop ở Hà Nội. Khóa luận tốt nghiệp cử nhân. K.47 Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
9. Trần Hồng Nhung (2007) Thức ăn nhanh –các biến chuyển văn hóa-lối sống của một bộ phận cư dân đô thị trong quá trình chuyển đổi (nghiên cứu trường hợp nhà hang KFC ở Hà Nội) Khóa luận tốt nghiệp cử nhân. K.48 Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
10. Trần Văn Hiếu (2008), Các tương tác nông thôn - đô thị ở khu vực đô thị hóa cao (Qua nghiên cứu nhóm làm nghề đồng nát ở làng Triều Khúc – Xã Tân Triều - Huyện Thanh Trì - Hà Nôị, Khóa luận cử nhân K.49, Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
11. Lan Anh (2008) Gánh hàng rong. Khóa luận cử nhân K.49, Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Phương Thảo (2010) Quán nước chè chén trên phố cổ Hà Nội. Khóa luận tốt nghiệp K51. Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
13. Phùng Văn Quỳnh (2010) Chiến lược sống của nhóm di dân tự do làng Đồng Vàng, xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, Hà Nội (trường hợp những gia đình có người hành nghề xe ôm). Khóa luận tốt nghiệp K.51. Khoa lịch sử, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
Luận văn cao học:
14. Nguyễn Thị Thanh Hoa (2007), Hội Đồng niên: Các vai trò, khuôn mẫu và ứng xử trong xã hội nông thôn đang chuyển đổi (trường hợp làng Quan Đình, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
Điểm qua tên các chủ đề trên, chúng ta thấy:
- Khu vực thuần túy nông thôn, ở đây tập trung là làng xã, chiếm một tỷ trọng lớn trong các đề tài (trên 64% tổng số đề tài), khu vực trung gian “nông thôn-đô thị (chiếm 21%): và đô thị (chiếm 14%);
- Các nghi lễ trong nông thôn thu hút được sự chú ý của sinh viên (lễ hội làng Đồng Kỵ, lễ hội làng Giang Xá);
- Các tổ chức xã hội trong làng xã là một chủ đề nghiên cứu được sinh viên chọn làm đề tài nghiên cứu (tổ chức Bích, giáp, hội đồng niên);
- Chủ đề di dân nông thôn - đô thị, tuy khó, song cũng được sinh viên bước đầu thử sức nghiên cứu (các nhóm di dân tự do làm nghề đồng nát, gánh hàng rong, xe ôm).
- Các vấn đề của xã hội đô thị đã bắt đầu được sinh viên chú ý, đó là các hiện tượng văn hóa nhóm, các trào lưu và xu thế văn hóa mới, mang tính toàn cầu (hip hop, ăn chay, thức ăn nhanh KFC, quán nước chè chén trên phố cổ, biến đổi văn hóa của làng ven đô)
Thống kê trên không có tính đại diện cho cả một xu hướng nghiên cứu và giảng dạy chung cho khoa và các bộ môn, song ở một mức độ nào đó, phản ánh quan điểm và cách tiếp cận của giáo viên trong việc chuyển tải các lý thuyết và kỹ năng nghiên cứu nhân học cho sinh viên trên cơ sở các lý thuyết nhân học văn hóa xã hội hiện đại và thực tiễn của xã hội Việt Nam chuyển đổi.
Các nghiên cứu này đã được thực hành trên những cơ sở sau:
- Lấy một hiện tượng, một trường hợp của đời sống xã hội làm đối tượng nghiên cứu cụ thể, không làm các đề tài quá rộng không phù hợp với năng lực của sinh viên;
- Lấy điền dã làm khởi đầu cho việc trang bị các quan điểm và nhãn quan nhân học, bởi việc tiếp xúc đầu tiên với thực tiễn là cách tốt nhất để học sinh có được cái nhìn về sự đa dạng của đời sống và học cách phản ánh tiếng nói của chủ thể trên cơ sở đóng vai là người hoc/tìm hiểu một văn hóa khác mình;
- Điền dã cho phép sinh viên thực hành các kỹ năng nghiên cứu, là cả một quy trình: thu thập thông tin, xử lý thông tin, xây dựng các dạng báo cáo khoa học (các thuyết trình, các dạng bài tiểu luận ngắn, khóa luận);
- Điều quan trọng về mặt tâm lý đối với sinh viên là các nghiên cứu thực địa mang trong nó bản chất sống động, “tươi rói” của đời sống sẽ cuốn hút sinh viên hơn, không “khô cứng” như các kỹ thuật nghiên cứu phi thực địa khác, do đó, nó vừa là sức hút, vừa là thách thức khiến sinh viên quan tâm hơn đối với đối tượng nghiên cứu;
Để sinh viên có những thành công trong nghiên cứu, đòi hỏi thầy và trò phải có những nguyên tắc sau:
- Yêu cầu sinh viên phải về thực tế tại địa bàn nghiên cứu, nghĩa là phải thâm nhập đối tượng nghiên cứu để bảo đảm họ không được mang những cái nhìn chủ quan, đầy thiên kiến của cá nhân mình trước đây vào nghiên cứu. Không có cam kết về việc đi điền dã, thâm nhập nơi mà mình cần nghiên cứu, sinh viên sẽ không được nhận hướng dẫn;
- Cần phải có những tập huấn, thậm chí, trang bị hoàn toàn mới các kỹ năng về điền dã, về một số kỹ thuật khi nghiên cứu điền dã như quan sát, phỏng vấn, thảo luận nhóm nhỏ…
- Đề nghị sinh viên có những suy nghĩ về các vấn đề lý thuyết làm nền tảng cho nghiên cứu của mình. Điều này cần có sự hướng dẫn thật cụ thể và chi tiết để sinh viên có được một tầm nhìn về các xu hướng, các trào lưu phát triển xã hội mà địa bàn/vấn đề đang nghiên cứu chỉ là một trường hợp cụ thể mà thôi. Ví dụ khi nghiên cứu về các lễ hội, các tổ chức phi quan phương ở làng xã, cần trang bị các lý thuyết về mạng lưới xã hội, quyền lực, biến chuyển xã hội, thay vì chỉ gắng mô tả các tiến trình “lễ” và “hội”; nghiên cứu về di dân nông thôn đô thị phải trang bị các kiến thức, dù cơ bản, về kinh tế phi chính thức, về các lý thuyết di dân, về văn hóa nhóm.
- Các nghiên cứu thực địa đòi hỏi một năng lực phân tích và tổng hợp nhất định của nhiều cách tiếp cận, đặc biệt, ở tầm cử nhân, là khả năng sử dụng được từng phương pháp/kỹ thuật và kết hợp được nhiều phương pháp/kỹ thuật để có được đầy đủ các thông tin. Ở khía cạnh này, đòi hỏi một sự hợp tác chặt chẽ giữa người hướng dẫn và sinh viên trên một lịch trình làm việc được hoạch định cụ thể, chi tiết theo từng tuần.
- Vấn đề cuối cùng là người hướng dẫn không làm thay sinh viên, áp đặt các chủ kiến của mình mà chỉ gợi mở, hướng dẫn quá trình tư duy của học sinh, để họ tự quyết định các vấn đề. Quá trình này đã nâng tính tự chủ, độc lập của sinh viên cũng như việc kết hợp với nguyên tắc trên, tạo nên một hiệu ứng hai chiều: thầy học hỏi được từ sinh viên những tư liệu mới, thậm chí những cách đặt vấn đề và tư duy mới, trò đạt được không những là kiến thức và kỹ năng mà còn là khả năng tổ chức nghiên cứu.
Theo chủ đề nghiên cứu, chúng ta có thể thấy các động thái phát triển sau của một xã hội chuyển đổi, đó là:
- Nông thôn và đô thị, với tính cách là hai thành phần quan trọng nhất của mỗi xã hội, cũng như các nhóm xã hội, đã và đang đứng trước những biến đổi to lớn, dưới tác động của quá trình chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp-nông dân-nông thôn sang xã hội công nghiệp, hiện đại và đô thị. Quá trình này, còn có sự tham gia của yếu tố toàn cầu hóa. Đi tìm các vấn đề của CNH, HĐH, ĐTH từ nhiều góc độ nghiên cứu, luôn là các câu hỏi lớn của giới nhân học;
- Xã hội nông thôn, trọng tâm của nó là làng-xã, đã và đang là những vấn đề được giới nhân học chú ý, song ở đây đã có những điểm khác hơn so với truyền thống: đó là đặt nông thôn và làng – xã trong mối quan hệ với đô thị, không coi nông thôn và đô thị là hai thực thể đối lập nhau mà là bổ sung cho nhau, từ đây xuất hiện những khái niệm về tính đô thị trong nông thôn và tính nông thôn trong đô thị. Trong bối cảnh mới, nông thôn cũng không được coi là nơi độc quyền của sự hiện diện cái cổ truyền, sự lạc hậu. Các vấn đề về tính tập thể, tinh thần cộng đồng, hệ thống nghi lễ, các phong tục và tập quán truyền thống…cũng cần phải có những lý giải mới;
- Xã hội đô thị, trong xu hướng phát triển, sẽ chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong xã hội Việt Nam. Trong bối cảnh đó, văn hóa đô thị đã và sẽ là một hệ vấn đề với rất nhiều các chủ điểm được chia nhỏ, theo đúng đặc trưng của xã hội đô thị là văn hóa nhóm và văn hóa cá nhân sẽ nổi trội. Đây cũng là nơi đón nhận, thể hiện các trào lưu và hiện tượng văn hóa xã hội du nhập từ quốc tế vào, thể hiện mạnh các xung đột, các mâu thuẫn giữa cũ và mới, bảo tồn và phát triển, chính thức và phi chính thức, cá nhân và nhóm/cộng đồng;
2. Hướng tới việc nghiên cứu và giảng dạy về xã hội chuyển đổi:
Xã hội chuyển đổi, với những phức tạp và đa chiều như vậy, đòi hỏi nhân học phải nắm bắt được các trào lưu chuyển động của xã hội, phản ánh được các khích chiều của xã hội. Sự đa dạng của đời sống đòi hỏi những nhà nhân học cần được chuẩn bị về mặt lý thuyết và kỹ năng làm việc cũng như các điều kiện làm việc. Quá trình thực hành trên các quan điểm lý thuyết trên, tôi thấy cần phải bổ sung các vấn đề sau:
Xã hội chuyển đổi, với những phức tạp và đa chiều như vậy, đòi hỏi nhân học phải nắm bắt được các trào lưu chuyển động của xã hội, phản ánh được các khích chiều của xã hội. Sự đa dạng của đời sống đòi hỏi những nhà nhân học cần được chuẩn bị về mặt lý thuyết và kỹ năng làm việc cũng như các điều kiện làm việc. Quá trình thực hành trên các quan điểm lý thuyết trên, tôi thấy cần phải bổ sung các vấn đề sau:
1. Quan điểm tổng thể cần được coi như là một trong những nền tảng quan trọng trong việc tiến hành các nghiên cứu và đào tạo nhân học văn hóa xã hội, bởi sự liên hệ mật thiết giữa các khía cạnh chính trị-kinh tế-xã hội và văn hóa trong mỗi trào lưu và hiện tượng xã hội;
2. Từ nền tảng này, nếu chúng ta cho là quan trọng, cần trang bị cho sinh viên ngay từ những năm đầu tiên các quan điểm và lý thuyết nhân học, kèm theo đó, là các kiến thức cơ bản khác của các bộ môn khoa học xã hội có liên quan như chính trị học, kinh tế học, xã hội học, nghiên cứu văn hóa. Nếu đi theo hướng này, sinh viên sẽ có những kiến thức nền tảng về xã hội và văn hóa, thay vì một tình trạng như hiện nay, sinh viên khi học nhân học, thiếu rất nhiều các kiến thức chung về xã hội và văn hóa của con người;
3. Trang bị về kiến thức phải đi kèm với việc trang bị các kỹ năng về tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Đây là một thực tế còn yếu và thiếu đối với các sinh viên ngành nhân học và văn hóa học;
4. Cấu trúc một bộ môn cũng như toàn bộ chương trình cho thấy tình trạng “nhồi” kiến thức thay vì chỉ giới thiệu những điểm cốt yếu nhất của một bộ môn, kèm theo đó là các nghiên cứu trường hợp được giới thiệu, các tài liệu tham khảo, các câu hỏi thảo luận và bài tập nhóm bằng các nghiên cứu trường hợp, trình bày báo cáo. Cách giảng dạy này tưởng dễ song rất mất công trong quá trình chuẩn bị và không dễ trong thực hành giảng dạy.
5. Cái gì sẽ là khâu đột phá trong cải tiến giảng dạy và nghiên cứu nhân học? Theo tôi có 3 khâu: (1) thay đổi từ chính người thầy; (2) thay đổi triết lý giáo dục (3) thay đổi cấu trúc một bộ môn giảng dạy và cấu trúc một bài giảng. Khâu thứ nhất cần được đào tạo mới và đạo tạo lại về các kiến thức mới, kỹ năng giảng dạy mới và thay đổi tư duy và vai trò của người thầy trong quan hệ với học trò. Họ chỉ là người định hướng, chỉ dẫn thay vì là người nói lại các kiến thức đã có. Khâu thứ hai vừa liên quan tới cải cách giáo dục chung song cũng đòi hỏi sự tự đổi mới của chính các khoa, bộ môn và mỗi thầy cô. Khâu cuối cùng đòi hỏi sự sáng tạo của mỗi giáo viên trên một khung giảng dạy chung đổi mới, thay vì quy định giảng dạy lý thuyết và thực hành tách rời nhau, với các khung giá khác nhau, sẽ không khuyến khích được giáo viên đổi mới cấu trúc bài giảng.
6. Thay đổi cách thức đánh giá học trò trên quan điểm và triết ký giảng dạy mới, thay vì cho điểm cao là bởi các em học sinh thuộc bài. Cách đánh giá dựa vào triết lý giáo dục mới sẽ hướng vào sự tư duy, các kỹ năng thực tiễn để giải quyết các vấn đề thực tiễn, thay vì chỉ hướng vào “nhồi” kiến thức chay.
7. Cuối cùng, các thay đổi về khía cạnh hành chính trong hoạt động giảng dạy, bao gồm các vấn đề về khung giá thù lao, hỗ trợ thiết bị và công cụ giảng dạy, các vấn đề về thanh tra giảng dạy…
Lương Hồng Quang, PGS.TS.
VICAS
Bài viết tại Hội thảo Quốc tế: Nghiên cứu và đào tạo Nhân học ở Việt Nam trong qúa trình chuyển đổi và hội nhập quốc tế.
VICAS
Bài viết tại Hội thảo Quốc tế: Nghiên cứu và đào tạo Nhân học ở Việt Nam trong qúa trình chuyển đổi và hội nhập quốc tế.
Tài liệu tham khảo
1. Lương Hồng Quang và Tô Duy Hợp (2000), Phát triển cộng đồng: Lý thuyết và vận dụng, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
2. Lương Văn Hy (1991) Cải cách kinh tế và tăng cường lễ nghi tại hai làng ở miền Bắc Việt Nam (1980 – 1990). In trong: Borje Ljunggren (Chủ biên), Những thách thức trên con đường cải cách ở Đông Dương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Mạc Đường (Chủ biên) (1995), Làng xã ở Châu Á và ở Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Văn Chính (2002), Di dân nội địa ở Việt Nam - các chiến lược sinh tồn và những khuôn mẫu đang thay đổi. In trong: Phát triển đô thị bền vững. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 115-167.
5. Nguyễn Văn Chính (2008), Di dân, đô thị hoá và đói nghèo đô thị: Nghiên cứu trường hợp một xóm liều ở Hà Nội. Hội thảo quốc tế về di dân, Thành phố Hồ Chí Minh 2008.
6. Benedict J.Tria Kerkvliet (2005), The power of everyday politics - How Vietnamese peasants transformed national policy, Cornell University Press Ithaca and London.
7. Hy V. Luong (edited) (2003), Postwar Vietnam: dynamics of a TransformIn trongg society, In trongstitute of Southeast Asian Studies, SIn tronggapore and Rowman & Littlefield Publishers. In trongc.
8. Hy Van Luong (1992), Revolution In trong the Village: Tradition and Transformtion In trong North Vietnam, 1925 -1988, Honolulu: University of Hawaii Press.
9. John Kleinen (2007), Làng Việt đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ, NXB Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh.
10. John Monaghan and Peter Just (2000) Social and Cultural Anthropology: A Very Short Introduction (Very Short Introductions) Oxford.